Thế giới thi ca tư tưởng Bùi Giáng

  • Tâm Nhiên 

Bùi Giáng và Dê tím hoa cà. 
Tranh sơn dầu, Đinh Cường (6- 2013)
Viện Đại học Vạn Hạnh ở Sài Gòn, thủ đô miền Nam Việt Nam, trước năm 1975 là một trung tâm văn hóa Phật giáo nổi tiếng lừng lẫy. Nơi đây đã quy tụ biết bao tao nhân mặc khách, biết bao giáo sư, văn nghệ sĩ cự phách, thượng đẳng. Đặc biệt là các thiên tài xuất chúng như Phạm Công Thiện, Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát, nổi bật nhất là Bùi Giáng, một thi sĩ kỳ dị, kiệt xuất, xưa nay chưa từng thấy xuất hiện trên bầu trời văn nghệ Việt Nam và thế giới.

Trời đất, nhật nguyệt vẫn lăn quay dưới gót chân đời cát bụi, Bùi Giáng sinh năm 1926 tại Quảng Nam, quả nhiên là một hiện tượng kỳ lạ mà cho đến ngày nay, chưa một ai có thể hiểu được hết cõi tư tưởng hoằng viễn, cõi thi ca bát ngát vô song đó. Tuyệt mù những ngày xa xăm, thời còn niên thiếu lang thang ở Huế, Quế Sơn, Hội An, Duy Xuyên, Vĩnh Điện, Đà Nẵng… 
Đến năm 1952, lúc mới 24 tuổi, thi sĩ bỏ xứ lên đường phiêu lưu vào Sài Gòn, bắt đầu cuộc lữ phiêu bồng khốc liệt, không mục đích. Giai đoạn này, có đi dạy học ở các trường tư thục một thời gian rồi bỏ, chuyển sang sáng tác, viết sách bình luận văn học, dịch thuật và rong chơi ngút mùa sương gió đẫm mưa nắng dầm dề… Kể từ đó cho đến nay, suốt mấy chục năm trời viễn du biền biệt, chưa một lần quy hồi cố quận, nhưng lòng thì vẫn nhung nhớ triền miên:
Điện Bàn Đại Lộc Duy Xuyên
Xiết bao tình nghĩa thần tiên mộng đầu
Vĩnh Trinh Lệ Trạch Thanh Châu
Thi Lai Hà Mật nhìn đâu dáng người
Người đầu tiên đã mỉm cười
Nhìn tôi tưởng thấy niềm vui vô cùng
Tôi ngồi tưởng nhớ mông lung
Tưởng từ chín suối tới bao dung Bầu Trời.

Thi sĩ khơi vơi ngồi nhớ quê như thế. Quê hương cố xứ bên dòng sông Thu Bồn ở Duy Xuyên, Quảng Nam. Có người hỏi tiểu sử thì Bùi Giáng cười đáp: “Thi sĩ sinh ra như mọi người giữa cỏ cây gay cấn ly kỳ và sẽ chết đi giữa cỏ cây ly kỳ gay cấn… Thuở nhỏ bỏ học về nhà quê, làm thơ tặng chuồn chuồn và châu chấu”. 
Hỏi về sự sáng tác phi thường thì lai rai nói: “Con chim thì ta biết nó bay, con cá thì ta biết nó lội, thằng thi sĩ thì ta biết nó làm thơ, nhưng thơ là gì, thì đó là điều ta không biết”. Về sở học của nhà thơ, quả thật là thông đạt, quảng bác vô cùng, làu thông nhiều ngôn ngữ như Anh, Pháp, Đức, Hán. Không biết thi nhân tự học từ lúc nào mà trở thành một bậc thượng trí, hầu như vô sư tự ngộ, chỉ do đọc sách mà phát minh tâm địa như trường hợp thiền sư Huyền Giác đọc kinh Duy Ma Cật mà hoát nhiên triệt ngộ chân lý diệu thường.

Từ đó, trọn suốt cuộc đời, thi sĩ cứ phiêu nhiên trên con đường thênh thang sáng tạo, bước đi thi ca tỏa rợp trời thơ đất mộng bồng bềnh, trôi lênh đênh giữa phù hoa phộ hội hết sức lạ lùng. Lúc bấy giờ có nhà xuất bản An Tiêm do Thanh Tuệ làm giám đốc, vì một cơ duyên hy hữu nào đó đã dốc toàn tâm, toàn lực ra để lo cho công việc in ấn riêng biệt những tác phẩm thơ văn, biên khảo, dịch thuật của Bùi Giáng.

Sức sáng tạo của thi sĩ vào thời gian này, từ năm 1960 đến năm 1975 rất mãnh liệt, như ngọn lửa thiêng sáng bừng rực rỡ khắp trời đất u huyền, khiến cho nhà xuất bản An Tiêm in ấn không kịp; như về thi ca: Mưa Nguồn, Lá Hoa Cồn, Màu Hoa Trên Ngàn, Ngàn Thu Rớt Hột, Bài Ca Quần Đảo, Sa Mạc Phát Tiết, Sa Mạc Trường Ca… về biên khảo: Một Vài Nhận Xét Về Truyện Kiều, Phan Trần, Thúy Vân, Lục Vân Tiên, Chinh Phụ Ngâm, Quan Âm Thị Kính, Bà Huyện Thanh Quan, Tản Đà, Đi Vào Cõi Thơ, Thi Ca Tư Tưởng, Tư Tưởng Hiện Đại, Heidegger Và Tư Tưởng Hiện Đại, Trăng Châu Thổ, Sương Bình Nguyên, Mùa Thu Trong Thi Ca, Mùa Xuân Trong Thi Ca, Đường Đi Trong Rừng, Con Đường Ngã Ba, Lễ Hội Tháng Ba, Lời Cố Quận, Ngày Tháng Ngao Du… và dịch thuật các tác giả: Heidegger, Hoelderlin, Nerval, Saint Exupery, Albert Camus, Andre Gide, Shakespeare, Ngọa Long Sinh, To Man Thu…

Đó là một điều không ai hiểu nổi vì suốt ngày thâu đêm, người ta chỉ thấy một Bùi Giáng cuồng phóng rong chơi, cuồng sĩ du hý ca, nhảy múa la hét giữa trời một cách thoải mái ngoài đường. Thường ngâm thơ, uống rượu lu bù với mọi giới bình dân đây đó, bạ đâu ngủ đấy ngay ngoài vỉa hè xó chợ, góc quán hiên chùa, rong rêu lêu lổng khắp đầu phường cuối phố, ngao du trào lộng giữa ta bà, quá độ nồng say phóng túng:
Uống xong ly rượu cuối cùng
Bỗng nhiên chợt nhớ đã từng đầu tiên
Uống như uống nước ngọc tuyền
Từ đầu tiên mộng tới phiền muộn sau
Uống xong ly rượu cùng nhau
Hẹn rằng mai sẽ quên nhau muôn đời.

Chơi ngút mùa thơ, thi sĩ sống không nhà cửa, không vợ con, không tài sản, không sự nghiệp, không danh lợi, không là gì cả ngoài một bầu rượu túi thơ và một bộ quần áo xốc xếch cũ mèm, rách nát tả tơi, trông giống như một Tế Điên, một gã ăn mày quái dị, nửa tỉnh nửa mê. Thế mà sức sáng tạo, sáng tác quá đỗi rạt rào như thác đổ trào tuôn, thật là vô tiền khoáng hậu. Nhà thơ viết như thần nhập, như nhảy tung vào cõi huyền ngôn mật ngữ, làm khơi mở mối giềng xiết bao rực cháy, gây nên một nguồn cảm hứng tưng bừng, dậy sóng phiêu bồng cho biết bao kẻ đồng điệu, đồng cảm vút hồn bay chuếnh choáng, ngất ngây trong cơn say sưa túy lúy.
Đi vào cõi thơ Bùi Giáng, chúng ta cần phải buông xuống cái biên kiến, chấp thủ và chỉ khi nào cái bản ngã hạn hẹp của mình được chuyển hóa thì lúc ấy chúng ta mới lãnh hội, tương ứng với ngôn ngữ chân thực nghĩa tân kỳ của thi ca, của một cái gì vốn dĩ vô ngôn mà phải nói đột xuất bất ngờ:

Ấy là nhạc? Ấy là thơ?
Ấy là rượu đế một giờ bỗng dưng?
Ấy điên đảo? Ấy điệp trùng?
Ấy từ vô tận lừng khừng mà ra
Thưa em ngôn ngữ thật là
Cái gì như thể ngọc ngà thiên hương.

Thưởng thức thơ Bùi Giáng là lang thang vào miền cõi vô ngần bất tuyệt, là tha hồ tự do, bồng tênh trên rừng dưới biển, đầy âm thanh vi diệu ngữ, ngát hương kỳ hoa dị thảo, dạo chơi giữa ngã ba, ngã bốn những con đường sương mù, mây trắng rồi bỗng nhiên hiện ra một phương trời xanh biếc Nguyên Xuân rạng rỡ nhiệm mầu:
Hỏi rằng: Người ở quê đâu
Thưa rằng: Tôi ở rất lâu quê nhà
Hỏi rằng: Từ bước chân ra
Vì sao thấy gió dàn xa dặm dài
Thưa rằng: Nói nữa là sai
Mùa xuân đang đợi bước ai đi vào
Hỏi rằng: Đất trích chiêm bao
Sá gì ngẫu nhĩ mà chào đón nhau
Thưa rằng: Ly biệt mai sau
Là trùng ngộ giữa hương màu Nguyên Xuân.

Nguyên Xuân là mùa xuân rực rỡ sơ nguyên trong lòng người, là Diệu Tâm trầm ẩn của chúng ta. Từ cõi quê lòng thanh tịnh đó, thi sĩ bước ra hòa điệu cùng cát bụi phù hoa phố thị, ngao du ngày tháng ta bà qua biết bao heo hút dặm dài, giáp mặt với sơn cùng thủy tận của mộng đời hư huyễn phù du. Nhà thơ chứng kiến cõi người ta cứ lo tranh đấu, tranh chiến, cãi lộn đúng sai, phải trái, hơn thua, giành giật nhau mãi, ai ai cũng phát huy cái bản ngã to bự của mình bằng cách chạy theo danh lợi, địa vị, dấy khởi hoài tham lam, sân hận, si mê... để vô tình quên đi mất cái bản tâm thực tánh, cái mặt mũi xưa nay, cái cõi miền Nguyên Xuân thuần nhiên huyền diệu giữa lòng mình, cho nên thi nhân chạnh lòng trắc ẩn, thương xót cho những cảnh đời quá nhiều thống khổ điêu linh, bởi con người cứ mãi đắm chìm trong vọng tưởng, vô minh, hiểu lầm ngộ nhận:

Trần gian thơ mộng xiết bao
Mà buồn vô tận ai nào biết ai
Chưa yêu dấu đã lạc loài
Chát chua ngộ nhận tự ngoài vào trong…
Trần gian đáng lẽ tuyệt vời
Về sau chẳng rõ muôn đời đảo điên
Niềm đau nỗi khổ ưu phiền
Nối đuôi tiếp tới triền miên từng giờ.

Khi biết rõ từng giờ từng phút buồn thảm, u sầu cứ triền miên, vây khổn chốn phù sinh đầy trầm mê, phiền não, khổ lụy như thế, thi sĩ phát đại bi tâm, nguyện yêu thương hết cả trần gian, yêu muôn loài vạn vật, cả thập loại chúng sinh giữa ba đời sáu cõi luân hồi, qua lại đến đi:

Tôi tự nguyện sẽ một lòng chung thủy
Qua những lần buồn tủi giữa đảo điên
Thân xương máu đã đành là ủy mị
Thì xin em cùng lên thác xuống ghềnh
Em đứng mũi anh chịu sào có vững
Bàn tay bưng đĩa muối có chấm gừng
Tôi đã nguyện yêu trần gian nguyên vẹn
Hết tâm hồn và hết cả da xương
Xin yêu mãi yêu và yêu nhau mãi
Trần gian ôi cánh bướm cánh chuồn chuồn
Con kiến bé cùng hoa hoang cỏ dại
Con vi trùng cùng sâu bọ cũng yêu luôn.

‘‘Con vi trùng cùng sâu bọ cũng yêu luôn’’ huống chi là con người phải không ? Tình yêu, tình thương ấy tràn ngập khắp các tác phẩm thơ văn Bùi Giáng, dòng dòng long lanh như Mưa Nguồn tuôn đổ, như thác lũ trường giang chảy hoài miên man ngàn trùng lấp lánh:

Anh đã định sẽ yêu đời suốt kiếp
Suốt thiên thu từ vạn thuở phiêu bồng
Rồi anh chợt thấy mình luôn liên tiếp
Nửa điên cuồng nửa rồ dại lông bông
Và từng phút từng giây chồng chất ngất
Một trăm năm đứt ruột nát gan vàng
Một vĩnh viễn đoạn trường chìm ngây ngất
Dưới trầm luân từ thực thể muôn vàn.

Từ thực thể muôn vàn trầm luân kiếp nhân sinh đó, cũng như Nguyễn Du, nhà thơ tự nguyện gánh vác lên vai vô số khổ lụy, đoạn trường của Thúy Kiều hay như sư cô Tam Hợp âm thầm nhiếp dẫn từ bi cứu nhân độ thế. Chính vì dâu bể vô thường trong cõi đời máu lệ, điêu linh mà Diệu Pháp Liên Hoa đi về thể hiện tinh thần ‘‘khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến’’ chỉ ra Phật nhãn, cái thấy biết tuyệt vời tối thượng:
Từ bi? Vô tận đoạn trường
Đạo cô Tam Hợp ? Hoa Hương Bốn Mùa
Trăm năm dâu bể thiệt thua
Cũng là Diệu Pháp thượng thừa Liên Hoa.

Từ cõi Diệu Pháp vô vi bất khả tư nghì ấy bước ra, nên hành động của thi sĩ không giống như cõi hệ lụy ta bà đầy đa đoan, chấp ngã của chúng ta, thành thử nhà thơ tự nhận mình là thằng điên, thằng khùng, ngây ngô khờ dại cho khỏe nhẹ để khỏi còn ai thắc mắc phân vân:

Thần Tiên Thánh Phật uy quyền
Giúp đời vô tận thằng điên quý gì ?
Điên từ muôn một liên miên
Mà ra vạn thuở nối liền Liên Hoa
Ấy từ Diệu Pháp mà ra
Đất đồng mộc mạc nở hoa lẫy lừng.

Đó là thể điệu cuồng điên lộng lẫy của thần tiên du hý, điên chơi tới bến bờ hoan hỷ địa là cao hứng bừng reo vui, la hét, rống gầm sấm sét dậy lừng cung bậc Lăng Nghiêm trầm hùng cùng tuyệt:

Tam bành tứ trướng cuồng điên
Thần thông du hý thiên tiên dự phần
Lăng Nghiêm tam muội dậy lừng
Vượt non băng núi qua trùng điệp truông.

Lăng Nghiêm Kinh khai thị cái tâm chơn, tâm vọng của con người vốn bất nhị viên dung. Một khi thấu thị kỳ cùng điều đó, thi sĩ bất thần nhập diệu vào cảnh giới huy hoàng hoan hỷ địa, hồn phách bay bổng một niềm vui sướng lâng lâng:

Thượng thừa thể lệ trăm năm
Thần tiên du hý đánh chìm tài hoa.

Cái tài hoa trác việt, độc đáo của mình, đáng lẽ nên tự hào, hãnh diện nhưng thi sĩ tự mình làm cho chìm khuất, tiềm ẩn đi, chứ không huênh hoang phách lối, khoe khoang, kiêu ngạo phô bày ra như kẻ phàm phu tục tử thường tình. Đó là nhân cách cao thượng của bậc đại trượng phu, của những tâm hồn thượng đẳng hoằng đại. Tự mình vượt lên trên vòng đối đãi thị phi phải trái, thoát ra ngoài mọi sinh hoạt, quy ước của xã hội, để sống tự do, tự tại theo ý mình, thay vì làm một bậc thượng sĩ, cao nhân xuất chúng thì ngược lại, thi nhân thực hiện một bước nhảy trọng đại, ngoạn mục phi thường là tự nguyện làm người điên khùng, khờ dại lãng trí, tự mình trách móc, mắng nhiếc mình theo cách điệu thể thái tùy nghi:

Bỏ đi dẹp mặt mày đi
Làm thằng thi sĩ như mi dơ tuồng
Mi say rượu mi điên cuồng
Mi không ý thức vui buồn thế gian
Lão già say rượu nói nhăng
Làm thơ lẩm cẩm gia tăng tâm tình
Máu tim chia sẻ tâm tình
Nửa dâng Thần Rượu nửa trình Nàng Thơ.

Nói thì nói khề khà theo kiểu tự chế giễu, bỡn cợt khôi hài như thế, nhưng trái tim thi sĩ luôn luôn rực hồng ngọn lửa tình yêu thương vô lượng vô biên đối với cuộc đời đang sống trong túy sinh mộng tử này. Nhà thơ đau nỗi đau của con người, sầu nỗi sầu thiên cổ của kiếp nhân sinh tàn úa phai nhàu, nhất là sau biến cố vô thường dâu bể năm 1975:

Nỗi buồn khôn tả từ đâu
Đi về phảng phất nỗi sầu thiên thu
Giữa đêm chén tạc chén thù
Một mình độc ẩm sương mù dưới trăng
Nỗi thương nỗi nhớ hằng hằng
Nhớ thương vô cớ cầm bằng như không.

Ừ thì như có như không, như mộng như thực, như tỉnh như say... hết thảy đều là một chứ chẳng khác gì nhau như Tâm Kinh đã nói : “Sắc tức thị không, không tức thị sắc” đó mà. Trên tinh thần diệu dụng đó, thi nhân tiếp tục sáng tác không ngừng những thi phẩm mới : Rong Rêu, Đêm Ngắm Trăng, Như Sương, Mười Hai Con Mắt, Tuyết Băng Vô Tận Xứ, Ký Ức, Trúc Mai Từ Vô Tận Chúng Em, Mùa Màng Tháng Tư, Bèo Mây Bờ Bến, Rớt Hột Phiêu Bồng, Tâm Sự Tuổi Già, Thơ Vô Tận Vui.. lai láng chan hòa:
Giật mình tôi chợt nhớ ra
Rằng đây đất của chúng ta chúng người
Mở môi em mỉm miệng cười
Tình yêu từ đó vẹn mười muôn năm
Yêu em yêu mãi tấm lòng
Yêu em quá độ long đong suốt đời
Nhớ em nhớ suốt mây trời
Suốt trăng vĩnh viễn suốt nơi nào là.

Tình yêu đó lai láng như trường giang đại hải mênh mông, cứ tự nhiên trôi chảy, thường hướng đến những tầng lớp nghèo khổ trong xã hội như anh đạp xích lô, cô quét rác hay cô mua bán ve chai... Niềm thương cảm của thi sĩ có cái gì đó thật khác thường kỳ lạ:

Kính thưa đồng chí đại ca
Xích lô vô lượng kể đà bao phen
Từng phen lay lất ưu phiền
Niềm vui vô tận thường hằng đeo đai
Ve chai giày dép cũ càng
Em mua giúp hết dịu dàng em mua
Tơ trời thêu dệt bốn mùa
Đổi thay thời tiết nắng mưa luống từng
Dạn dày cho rõ phong sương
Âm thầm ý nghĩa muôn phương mây vàng.

Từ cô thôn nữ ở đồng quê chân lấm tay bùn đến cô em mọi nhỏ ở trên rừng truông rú thẳm hoang lương, thi nhân cũng chia sẻ tỏ bày rất đỗi ân cần, trìu mến:

Cày sâu cuốc bẫm cấy bền
Tháng ngày thanh thản êm đềm buồn vui
Thương em ngày tháng ngậm ngùi
Nhớ em ngày tháng sụt sùi giữa đêm
Kể từ vô tận tiêu tao
Yêu em mọi nhỏ chốn nào đầu non
Thấy em như thấy vuông tròn
Thành thân thiên hạ biển non dịu dàng
Yêu em như nước lan tràn
Nhớ em như nhớ những tràng giang xa.

Nguồn thơ xanh ngát lại mênh mang chảy tràn qua cổng chùa tu viện, vào thăm viếng thùy mị ni cô. Trước những vẻ đẹp hiền lành, thanh thoát đoan trang, chàng thi sĩ lóng cóng theo cách điệu bông đùa, cà rỡn quý ni cô thuần hậu, thuần phác:

Than dài trận trận mù sương
Mười ra em mọi một nường ni cô
Gọi tôi bằng bác xô bồ
Bảo tôi đừng gọi ni cô là nuồng
Đi tu em nhớ một lời
Đừng bao giờ trở lại đời làm giai nhân
Đừng đẹp đẽ đến vô ngần
Chỉ cần chút đỉnh đẹp tần ngần tu (đi)
Ni cô? Thánh mẫu nhu mì
Thành thân vô tận thuận tùy đầu tiên
Ni cô? Thục nữ thuyền quyên
Tìm đâu thấy được Nguyên Tuyền Ni Cô?

Đặc biệt Bùi Giáng dành một tình yêu thương lạ lùng đối với sư cô Trí Hải ở Đại học Vạn Hạnh, người đã dịch Câu Chuyện Dòng Sông của Herman Hesse. Thi sĩ cũng thường gọi sư cô là mẫu thân Phùng Khánh một cách tân kỳ sáng tạo:
Lúc về thờ phượng ni cô
Mẫu thân Phùng Khánh điểm tô đạo trời
Thần lên tiếng thánh đổi lời
Niềm riêng Vạn Hạnh mọc mời cô đơn
Kể từ con lạc ra khơi
Mẫu thân Phùng Khánh vội dời chân đi
Một vùng cỏ mọc xanh rì
Hai vùng sóng lục nhu mì mở ra
Con về trong cõi người ta
Nghe tin sét đánh mẹ đà đi tu
U hoài đầu mộng hôm qua
Mẫu thân Phùng Khánh thật là u u
Chân đi từng bước hư phù
Mộng đi từng bước tuyệt trù ống chân
Mẹ về đứng giữa đầu sân
Cuối cùng mẹ bước vô ngần mẹ đi.

Có người thấy lạ, thắc mắc hỏi: ‘‘Cớ sao Phùng Khánh nhỏ tuổi hơn mà đại ca gọi là mẫu thân?’’ Thi sĩ trả lời: ‘‘Bởi vì Phùng Khánh là mẹ Việt Nam, tôi là con dân Việt Nam thì tất nhiên Phùng Khánh là mẹ của tôi vậy. Nếu tôi không nhận Phùng Khánh là mẹ thì hóa ra tôi là người Lào, người Cao Miên hay con dân Âu Mỹ ư? Huống nữa Phùng Khánh là bà mẹ loài người, vậy Phùng Khánh là mẹ của tôi rồi. Nếu tôi không phải con của Phùng Khánh thì hóa ra tôi chẳng phải con người mà là con vật hay sao?’’. Ngoài Phùng Khánh ra, kỳ nữ Kim Cương cũng là một nàng thơ được thi sĩ đem lòng chiếu cố quý mến vô lường:
Kính thưa công chúa Kim Cương
Trẫm từ vô tận ven đường ngồi đây
Tờ thư rất mực mỏng dày
Làm sao định nghĩa đêm ngày yêu nhau?

Với một suối nguồn thương yêu vô điều kiện, yêu thương vô phân biệt, nhà thơ cũng rộn ràng trang trải cùng các cô gái đứng đường, xem các cô kỹ nữ như là tiên nương, thánh nữ giáng trần và tâm sự cùng các cô chan chứa nỗi niềm:
Bất ngờ tôi bắt gặp em
Vu vơ đi đứng một đêm giữa đường
Đến gần bất chợt tình thương
Bất ngờ tâm sự phi thường gần xa
Em từ viễn ngạn tuôn ra
Mười hằng hồng lệ chín sa dòng dòng
Tôi từ lịch kiếp long đong
Em từ lận đận tấm lòng bao lâu
Chúng ta từ cõi lao đao
Quen nhau từ những kiếp nào xưa xa
Tâm hồn của gái giang hồ
Các em vô tận kể từ đâu ra ?
Anh nay tuổi quá cỡ già
Thương em như nhớ gian nhà lưu ly
Các em dù tuổi tên gì
Cũng từng đã thốt lời gì anh nghe
Ngày nay đứng phố ngồi hè
Nhớ em mộng tưởng muôn bề rã tan
Cậy em lời cậy muôn vàn
Mình em riêng một đá vàng thiên thu
Tình yêu vô tận tự lòng
Tình không yêu cũng tùy tòng vô biên
Lỡ làng chút phận thuyền quyên
Chưa là thánh nữ cũng tiên nương rồi.

Chỉ có cái nhìn vô phân biệt trí mới thấy được như thế. Dễ có mấy ai trên đời này xem các kỹ nữ lầu xanh là tiên nương, thánh nữ ? Chỉ duy nhất thi sĩ Bùi Giáng mới có cái nhãn quan đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả như thế và từ cái nhìn thấu thị nhân sinh đó, thi sĩ ngợi ca, tán thán hết lời và gọi chung tất cả thục nữ mười phương là nàng thơ, nàng tiên diễm tuyệt vô ngần. Các nàng thơ, tiên nữ cứ đi về kề cận gần gũi, thân thiết miên man, bàng bạc ở khắp mọi nơi khắp chốn, từ phồn hoa đô hội đến lâm tuyền huyễn ngạn, ngoài bến gió bờ sương, ngút ngàn quyến rũ mộng mị chiêm bao, dạt dào xao xuyến, xiết bao tâm tình du dương tha thiết:

Các em vô tận thuyền quyên
Từ thiên cổ tới đầu tiên bây giờ
Các em không thể nào ngờ
Rằng đầu tiên đã bài thơ luống từng
Em từ trái đất tuôn ra
Em đi xinh đẹp tiên nga dậy thì
Gặp em toàn thể nhu mì
Non sông đất nước thuộc tùy tình em
Mai sau còn một tí gì
Ấy là khu vực nhu mì của em
Cái gì vô tận của em
Ấy là cái ấy của em lạ lùng
Em ơi ! Em đẹp vô cùng
Vì em có cái lạ lùng bên trong
Em ơi ! Em đẹp vô song
Vì em có cái bên trong lạ lùng.

Lạ lùng cái chi mà hấp dẫn như thế? Để cho chập chùng những cuộc đi về trên con đường mây trắng phiêu du, lãng đãng mơ màng và bỗng nhiên thấy trần gian đẹp đẽ vô cùng. Đẹp kinh hồn đến độ choáng váng mặt mày, ngập tràn cơn say chuếnh choáng, ngây ngất yêu đời vô tận nên nghêu ngao dạo khúc hát xênh xang. Trạng thái xuất thần nhập diệu ấy càng ngày càng đến thường xuyên hơn trong cuộc sống thường nhật, nên thi sĩ phiêu hốt, phiêu diêu trong cảnh giới tiêu dao vô ngại đó nhiều đến nỗi phải khiêu vũ, nhảy múa như một hoàng đế tự vất bỏ ngai vàng điện ngọc, đi vi hành làm kẻ vô danh tiểu tốt, tha hồ đùa chơi tiếu ngạo, ngâm nga la hét giữa phố thị ồn ào, tấp nập người qua kẻ lại, khiến thiên hạ cứ tưởng là nhà thơ điên. Kỳ thực đó là những phút giây khinh an, hoan lạc, bay bổng phiêu bồng:
Ông vua kỳ vĩ thập thành
Vì vui quá độ nên thành ra điên
Bây giờ tôi dại tôi điên
Chắp tay quỳ lạy khắp miền nhân gian.

Chao ơi ! Thái độ ‘‘chắp tay quỳ lạy khắp miền nhân gian’’ đó, chẳng khác chi hạnh nguyện của Bồ tát Thường Bất Khinh, luôn luôn kính trọng hết thảy mọi người, dù ngu trí, lớn nhỏ, giàu nghèo… một cách trân quý lạ thường. Giữa đỉnh cao và hố thẳm, giữa vô hình và hữu hình, giữa phù du và vĩnh cửu với điệu cười sinh tử như không, thi sĩ thấy ra cảnh giới Hoa Nghiêm trùng trùng duyên khởi nên hòa chung cung bậc đất trời rộng mở, thở cùng không khí phóng khoáng, hý lộng giữa đôi bờ mộng thực, tỉnh điên một cách khoan thai, thoải mái:

Cái điên cái tỉnh ở đời
Nào ai dám chắc thế thời ra sao?
Kéo dài rất mực chiêm bao
Cuộc chơi kỳ vĩ tiêu tao điên cuồng.

Cuồng điên là gì, thế nào là điên cuồng ? Vì sao các thiên tài trên thế giới thường hay bị điên như Nietzsche, Nerval, Strindberg, Pound, Van Gogh, Hoelderlin? Có lẽ điên là một cảnh giới dị thường mà người tỉnh táo không thể hiểu được hay lãnh hội được điều chi. Thôi thì, chúng ta cứ tiếp tục đọc thơ chơi, phiêu hốt theo cách điệu phiêu nhiên hý ngôn lộng ngữ, thư thả cà rỡn bông đùa:
Nỗi buồn nỗi khổ đời xưa
Nỗi sung sướng đến móc mưa bất ngờ
Đời nay đất đá cằn khô
Đời xưa đất đá đều đờ đẫn điên
Điên duỗi dọc điên ngửa nghiêng
Điên là hạnh phúc thần tiên ở đời
Cuộc chơi kỳ vĩ thập thành
Các em kỳ bí hơn anh quá nhiều
Tử sinh giữa cuộc dấn liều
Tử sinh liều giữa diễm kiều cuộc chơi.

Chuyện sinh tử đối với phần đông phàm phu tục tử chúng ta là rất đỗi trầm trọng, kinh hoàng, khủng khiếp, nhưng với thi sĩ thì thấy nhẹ như lông hồng, cho nên cứ tiếp tục cuộc rỡn đùa chơi, vì đã thấu triệt được lẽ bất sinh bất diệt, chết rồi cũng chẳng mất đi đâu mà chuyển qua hình thức khác, chuyển biến theo luân hồi giữa ba đời sáu cõi, tái sinh theo nghiệp báo của riêng mình đấy thôi:

Em về choáng váng tê mê
Em về từ tử diệt về tái sinh?
Em về vô tận bình minh
Từ em tử diệt tái sinh mừng chào.

Chào mừng cuộc sống vô lượng vô biên giữa biển đời trùng trùng sóng phong quang Bát Nhã, sóng lai láng tràn vào từng trang cổ lục cảo thơm, giúp cho người ta thấy lại vẽ đẹp huy hoàng, tráng lệ của trí tuệ muôn đời tung bay phất phới:

Thình lình vô tận biển khơi
Sóng triều Bát Nhã đẩy chơi vào bờ
Thượng thừa trí tuệ thẩn thơ
Chép tờ cổ lục cho tờ cảo thơm.

Trí tuệ Bát Nhã ấy chẳng ở đâu xa mà nó ở ngay giữa tâm hồn chúng ta đây thôi. Em hãy quay nhìn lại chính mình thì sẽ thấy ngay lập tức cái lòng trong trẻo nguyên sơ, hiển hiện ra khắp muôn chiều diệu dụng cảnh giới Hoa Nghiêm:

Cõi bờ con mắt Hoa Nghiêm
Tường vôi lá cỏ lim dim vô cùng
Em đi vô tận trùng trùng
Em về vô lượng tự lòng mà ra.

Cảnh giới Hoa Nghiêm đang thị hiện, diễn bày chung quanh khắp mặt đất trần gian cát bụi, từ vô lượng kiếp đến mỗi một phút giây của từng sát na vĩnh cửu. Một hôm lang thang lêu lổng, bỗng thi sĩ kỳ ngộ, trùng phùng đức Thế Tôn bên vỉa hè phố chợ, khiến chàng rúng động cả thần hồn, vội quỳ xuống đảnh lễ thành tâm:
Thập thành đảnh lễ bước chân
Như Lai hộ niệm phù vân điệu chào
Quan Âm Bồ tát chốn nào
Cũng cho nghĩ nghị lối vào Trung Niên
Ôi Bồ tát hỡi Nhu Lai
Lời thơ đãnh lễ lai rai vài hàng
Ngàn thu rớt hột xuống trang
Lá hoa cồn dậy muôn vàn bữa qua
Ca về tuế nguyệt thiên thâu
Về ca khoảnh khắc sơ đầu sát na
Chân Không Diệu Hữu là ca
Không chân hữu diệu lưu sa hằng hằng.

Chân Không mà Diệu Hữu nên mới có chuyện nói đi nói lại, nói mãi suốt từ thiên cổ xưa nay. Nói từ ngày Đức Phật chứng đạo dưới gốc cây Bồ đề đến bây giờ cũng bấy nhiêu chuyện mà thiên kinh vạn quyển, trùng trùng vô tận vẫn nói không hết lời. Cho nên thi nhân cũng hòa theo chiếu cố, ngưỡng mộ trước phong cách trầm hùng bất động vô nhiễm của Như Lai:

Phật ngồi dưới gốc Bồ đề
Tiên nương dừng bước tóc thề chấm vai
Thưa rằng Phật thật là tài
Thấy mà như chẳng từ ngoài vào trong.

Thấy mà như chẳng từ ngoài vào trong”. Chỉ cần một câu thơ đó thôi, Bùi Giáng đã lột tả hết được tinh túy của đạo lý Đông Phương suốt từ mấy ngàn năm rồi, Khổng Tử, Long Thọ hay Cưu Ma La Thập thì cũng muốn nói quanh nói quẩn cái vô sở trụ, vô sở chấp ấy mà thôi:

Lời thô tục? Ý u tồn?
Ý nào u tục thô ngôn là lời?
Giả danh chân đế cũng rồi
Giả danh tục đế đún đẩy lời cũng qua?
Trăm năm trong cõi người ta
Lọ là Long Thọ lọ là Khổng Khâu?
Bão giông hằng thể bi thanh
Liên Hoa Diệu Pháp lịch hành Thệ Đa
Thập thành sử hiện ra hoa
Thập Ma La Thập lời Hoa Nghiêm rằng.

Rằng thì là... như thế. Như thế là như thế nào? Chúng ta hãy nghe Bùi Giáng khề khà đối thoại thong dong:
“- Đọc thơ văn mày viết ra, tao thấy rằng thỉnh thoảng mày nói lên đúng cái tư tưởng ẩn mật trong kinh Hoa Nghiêm, mặc dù mày viết theo cái điệu riêng biệt của mày. Thế nên tao càng ngạc nhiên thấy rằng thường thường mày cứ luẩn quẩn đọc những sách nhảm nhí lăng nhăng. Tao muốn hỏi mày tại sao mà như thế? Mày quên mất cõi tư tưởng lớn hay sao?
- Tao cũng chẳng rõ tại sao, nhưng mày thử giải nghĩa tao nghe thế nào là cõi tư tưởng lớn. Lớn là lớn bằng mặt trời hay mặt trăng hoặc to bự như vũ trụ?
- Cứ tạm cho là to bự như vũ trụ.
- Thế thì tao thử hỏi lại mày: Có khi nào mày nhìn thấy vũ trụ to bự nằm ở ngay trong một giọt sương?
- Có.
- Trong một lá cỏ?
- Có.
- Trong một lổ chân lông?
- Có.
- Thế thì bây giờ mày đã nhận thấy rằng câu hỏi của mày nêu ra ở trên kia đích thực là lệch lạc ?
- Có lẽ.”

Thế đó, cảnh giới Hoa Nghiêm là vậy, thấy tất cả vũ trụ mười phương, muôn loài vạn vật, thánh phàm, thế gian và xuất thế gian đều nằm gọn trong tâm của chúng ta đây mà thôi. Tâm như hư không, vốn là rỗng lặng thanh tịnh, chẳng có hình dáng, không sinh không diệt, nhưng vô cùng diệu dụng rất sinh động, tuy bất biến mà tùy duyên. Cái tâm sinh động ấy ứng vào lòng thi sĩ Bùi Giáng nên hồn thơ xuất thần bay bổng, lồng lộng giữa trời đất phong quang bát ngát mông mênh. Bên ngoài thì nhảy múa hát ca nhưng bên trong vẫn tịch nhiên niệm Phật như thường:

Huyền hoa đứng ở giữa đường
Người đi rốt cuộc phi thường vẫn đi
Nam mô Đà Phật A Di
Lan mùa nam diện lai quy phục hồi.

Con đường hân hoan sáng tạo, thi sĩ bước đi đã quá đổi dập dìu, phiêu lãng hoan say, khiến cho thánh thần cũng lắc đầu chịu thua, chỉ có những bậc Bồ tát mới độ lượng mỉm cười tương ứng cùng thi sĩ sâu xa:
Bây giờ huyền diệu sát na
Bước về gọi mộng sơn hà Trung Niên
Là thằng thi sĩ diện tiền
Làm thơ lố bịch thánh hiền chịu thua
Chỉ duy Bồ tát vui đùa
Niêm hoa vi tiếu là vừa lòng thôi.

Bồ tát là người có tâm hồn rộng mở, bao dung, chấp nhận tất cả thuận nghịch tỉnh táo hay điên rồ của thế gian, luôn ban vui cứu khổ cho con người. Thế là, người thi sĩ tuy điên cuồng nhưng vẫn được các vị Bồ tát chiếu cố, vì thế cứ tha hồ rong chơi, tiếu ngạo giang hồ và chuếnh choáng làm thơ tình yêu, ca ngợi tình thương vô lượng như muốn nhắn gởi điều chi bí mật cho người em chí cốt diệu thường:

Gởi em chút đỉnh mùi hương
Tình yêu xa vắng như dường như không
Gởi em mật pháp phiêu bồng
Ngàn trăng ngậm bóng sương đồng quy lai.

Sau bao nhiêu trận trận tang bồng, phiêu dật, nhà thơ đã truyền âm nhập mật pháp môn gì đó? Chỉ có nàng thơ mới có thể nghe và hiểu ra mật pháp đó mà thôi. Chúng ta đừng có tò mò mà luận bàn đủ thứ. Thi sĩ hẹn hò nàng thơ cùng gặp nhau ở phương trời cố quận cuối nẻo nào heo hút tận chân mây:

Mây theo gió thổi về mau
Bây giờ tiễn biệt mai sau trùng phùng
Cùng em cố quận sẽ cùng
Xiết bao tâm sự điệp trùng tái sinh.

Bởi vì cũng từ nàng thơ huyền mộng, từ ngày em xuất hiện trên mặt đất thân yêu này đã khiến cho thi sĩ bừng ngộ ra một điều chi kỳ bí:

Bước vào nào thấy chút chi
Bước ra bỗng thấy cái mì nhu em
Toàn nhiên đại ngộ hoát nhiên
Hoát nhiên đốn ngộ thần tiên thượng thừa
Em từ thiếu nữ bước ra
Thành thân thục nữ tên là thuyền quyên
Mang thêm mỹ nữ chênh vênh
Em làm đắm đuối dưới trên bao người
Em muôn vạn xứ êm đềm
Cho em rất mực muôn nghìn mà ra
Anh từ đó ngộ thiết tha
Em là vô tận em là em ơi!

Hoát nhiên đốn ngộ điều chi? Thi sĩ không nói, chỉ biết rằng, tất cả mọi việc làm, hành động từ xưa đến nay cũng chỉ là vô tâm, vô niệm, như không, chẳng là gì gì hết cả:

Như không là ấy ruột rà
Như không vô tận từ ta tặng người
Em từ viễn tượng xa xôi
Về từ thiên thượng tuyệt vời tố nga
Tình yêu có lẽ chăng là
Tình thương vô tận tặng quà vô tâm.

Tặng người em gái quê, gái phố, gái núi, gái rừng, gái biển, gái thuyền quyên thục nữ mười phương một bài thơ tình thương yêu bất tuyệt vĩnh hằng:

Tặng em thể điệu toàn thân
Kết chùm nguyệt rộng đôi vần thi ca
Tặng em thỉnh thoảng mà ra
Thiên thu tặng vật đóa hoa tình đầu
Chiều nay bỗng thấy tình thương
Chảy tràn ngập khắp du dương cõi bờ
Chân tình anh hỏi nàng thơ
Chẳng thà như rứa chớ bơ vơ - ồ !
Hình thành tinh thể bài thơ
Vô cùng kiều diễm một giờ mà ra
Muôn trùng vĩnh biệt thiết tha
Một giờ như thể muôn hoa một mùa.

Một mùa chi mà lạ rứa? Thưa rằng không biết nữa. Chỉ hay rằng, nhà thơ Bùi Giáng có một niềm tương ứng đậm đà, thâm sâu đến độ tâm đắc cùng lục bát Nguyễn Du qua tác phẩm Truyện Kiều. Hình ảnh thi hào Tố Như luôn luôn xuất hiện, đi về trên khắp hàng ngàn trang thơ văn nồng nàn hơi thở:
Làm đi làm lại bài thơ
Kể từ tao ngộ bất ngờ Nguyễn Du
Về bên cố quận tuyệt trù
Vượt biên giới nhập thiên thu vô lường.

Thiên thu vĩnh cửu nằm ngay trong giây phút bây giờ và ở đây. Không còn biên giới phân biệt nhị nguyên đúng sai, phải trái, hết rồi những có không, mộng thực giữa chốn tồn sinh. Người thi sĩ hồn nhiên như trẻ thơ, thở nhẹ nhàng từng điệu thở hài nhi nhẹ vời với tiếng cười nhẹ nhõm reo vui:

Chưa biết nói đã biết cười
Cười như thượng thặng vẹn mười Như Lai
Hồn như Di Lặc dẻo dai
Cười không biết chán chường ai ai người
Quả nhiên nó đúng là người
Mà sao nó khác hẳn người chúng ta
Quả nhiên nó rất là già
Mà sao nó bảo nó là trẻ thơ
Trẻ thơ nào có bao giờ
Biết làm thơ để phượng thờ tình yêu?

Bùi Giáng là thế, vẫn tà tà cách điệu tiếu lâm, riễu cợt hài hước cho “vui thôi mà” chớ có chi đâu mà trầm trọng, nặng nề phê phán đúng sai, trúng trật, dở hay... phải không ? Mỉm cười nhẹ thênh trên con đường miên man sáng tạo, trên ngõ về vô sở trú phong quang, thi sĩ thung dung trỗi nhịp cung đàn hoan ca, hòa âm cùng cung bậc Bất nhị như nhiên. Với tinh thần vô sở cầu, vô sở chấp, vô sở đắc, lặng lẽ buông bỏ, cho và cho hết những gì mà thiên hạ đang đấu tranh, giành giật chiếm hữu lẫn nhau, thi nhân tự nguyện sống nghèo nàn hàn sĩ, làm kẻ ăn mày, một tên cuồng sĩ lang thang, suốt đời hát bản độc hành ca qua Ngày Tháng Ngao Du làm Rớt Hột Phiêu Bồng giữa trời Thơ Vô Tận Vui:

Đã đi đã đến cuối trời
Đã về như vẫn muôn đời đã đi
Đi về đi ở đi đi
Đi là đi biệt từ khi chưa về.

Về hay đi cũng cùng trên nhịp điệu hân hoan thượng đẳng. Văn hào Mỹ Henry Miller nói : “Từ chút ít sách vở tôi đã đọc, tôi nghiệm ra rằng, những người lặn lội sâu nhất trong cuộc đời, những người nhồi nặn cuộc đời, những người chính là cuộc đời đều ăn ít, ngủ ít, sở hữu ít hay không có gì cả. Họ không có bất kỳ một ảo tưởng nào về bổn phận, hoặc nối dõi tông đường hay duy trì quốc gia. Họ chỉ quan tâm tới chân lý và chân lý mà thôi. Họ chỉ chấp nhận một hình thức hoạt động là sáng tạo.

Không một người nào có thể chỉ huy công việc họ, bởi vì họ tự nguyện cho tất cả. Họ cho không, bởi vì đó là cách duy nhất để cho.”* Nhận định trên của Henry Miller rất đúng với trường hợp Bùi Giáng biết bao. Một thi nhân đã tận hiến cho cuộc sống bằng tất cả tinh thành chân thiết nhất, bằng con đường nghệ thuật thi ca.

Nhà thơ đã sống trọn vẹn một cuộc đời hạnh phúc, viên mãn theo ý nghĩa đạo Phật. Suốt bình sinh cuộc sống, thi sĩ là hình ảnh quá cùng đẹp trong cái nhìn của thiên hạ mọi người, nhất là giới tăng sĩ Phật giáo và giới văn nghệ sĩ, ai ai cũng nhìn ông với niềm ưu ái, quý mến đầy ngưỡng mộ. Ngưỡng mộ sự tự do tự tại, thung dung thoát tục, không dính bụi trần mà “hòa cùng ánh sáng, trộn cùng cát bụi” của thi nhân.

Bồng tênh tiêu sái, rong chơi suốt một đời thơ giữa phồn hoa phố thị như một hài nhi tóc bạc thơ ngây, nhảy múa hồn nhiên hát ca vi vu vi vút. Cuộc đời Bùi Giáng vô cùng thi vị, một cuộc đời hoàn toàn sống vì nghệ thuật, dâng hiến tất cả cho nghệ thuật thuần túy, chỉ biết sống hết mình cho thi ca và đệ nhất hy hữu nàng thơ tuyệt cùng chơn mỹ:

Vì yêu dấu quá nàng thơ
Với em vô tận nên ngơ ngẩn buồn
Thần tiên thánh Phật bao dung
Hiểu lòng tôi lắm tôi khùng vì thơ.

Nhà thơ thõng tay vào chợ, tung hoành ngang dọc, nhảy múa quay cuồng đủ thể điệu quàng xiên mà vẫn sáng suốt, thông tuệ phi thường. Điều đó chứng tỏ một nội công thâm hậu, một tư tưởng thượng thừa. Tư tưởng trong thơ Bùi Giáng mang một ý nghĩa bùng vỡ khai phóng, đầy ắp hào quang sáng tạo. Tư tưởng nhập cuộc chịu chơi vào cõi tồn lưu mà vẫn thanh thản thong dong, không dính mắc, chẳng ràng buộc, không chấp chặt của thi nhân thật chẳng khác gì thái độ vô tâm, vô niệm, vô sự của những bậc thiền sư.

Tư tưởng phá chấp triệt để của Thiền tông được thi nhân thể hiện suốt bình sinh cuộc sống bằng chính bản thân mình, như ngụ ngầm khai thị một điều gì vi diệu mà mỗi một người trong chúng ta phải tự lãnh hội, tự thấu hiểu ra mà thôi. Sở dĩ con người đau khổ là vì cố chấp, chấp ngã, chấp pháp, chấp đủ thử lu bù nên cứ mãi khổ đau trầm thống triền miên. Muốn thoát khỏi vòng trầm luân, khổ não đó, chỉ còn một cách là hãy trở về lại chính mình, nhận biết cái bản tâm nguyên sơ, sống với thực tại đang là, ngay trong từng hơi thở luôn luôn mới lạ và mới lạ.

Tiến sĩ Nguyễn Tường Bách nhận xét về thi sĩ: “Bùi Giáng cũng như một người điên, cỡ Tế Điên. Cũng như Tế Điên, hình như ông đến cõi đời này để dạo chơi, để đùa rỡn và cũng để giáo hóa cho con người thấy tất cả đều chỉ là trò ảo giác của sắc thân, của chữ nghĩa, của tư tưởng, chúng đều là chuyện đáng để đùa rỡn.”** Rỡn đùa điên khùng chơi theo thể điệu Tiếu Ngạo Giang Hồ Lệnh Hồ Xung tung chưởng vô chiêu, hay như vua hề Charles Chaplin với cung đàn Limelight bất tuyệt hoặc khùng điên nhảy múa ca hát, tràn đầy yêu thương tuyệt mỹ như nghệ sĩ Nijinsky: “Tôi là Thượng đế trong con người. Tôi cảm những gì Christ đã cảm. Tôi giống như đức Phật, tôi là đức Như Lai Phật giáo và là tất cả mọi Thượng đế thiên hình vạn trạng. Tôi quen biết tất cả những vị đó và đã gặp gỡ tất cả những vị đó. Tôi giả vờ làm thằng điên một cách cố ý vì những mục đích riêng tư của tôi. Tôi biết rằng, nếu mọi người nghĩ rằng tôi là một thằng điên vô tội thì họ sẽ không sợ tôi. Tôi không thích thiên hạ nghĩ rằng tôi là một thằng điên nguy hiểm. Tôi là một thằng điên yêu thương nhân loại. Cơn bệnh điên của tôi là tình thương của tôi đối với nhân loại”.***

Bùi Giáng cũng như vậy, cơn bệnh điên của thi sĩ là vì quá thương yêu nhân loại đó thôi. Yêu thương quá độ mà thành ra điên, mà bày ra đủ trò khiêu vũ ngôn ngữ, hý lộng ngữ ngôn một cách thượng thừa như đùa như rỡn trào tuôn. Ừ thì như thị, như thế, như thế, cứ mở ra những cuộc rỡn đùa chơi hay đại hòa điệu chơi giữa cõi người ta, vì tất cả mọi sự trên thế gian này đều chỉ là trò chơi, trò đùa huyễn mộng. Sống chết là chơi, vui buồn là chơi, hạnh phúc, đau khổ là chơi, tỉnh táo, điên rồ là chơi, uống rượu say sưa, nhảy múa, khề khà là chơi, mê gái, làm thơ làm thẩn, làm văn nghệ là chơi, làm bất cứ việc gì cũng là trò chơi, trò đùa du hý mà thôi:

Mỗi người có một cách chơi
Em vui với gió tôi ngồi nhìn trăng
Em đi năm tháng thường hằng
Tôi nằm nhớ mãi hàm răng em cười
Mở tờ giấy mới ra chơi
Hình như giấy cũng vui cười với em
Bài thơ do đó lem nhem
Lúc vui lúc khổ như em đó mà
Còn tôi vui khổ thật là
Đảo điên rất mực tiên nga giật mình
Trăm năm khó đổi tính tình
Cũng không có thể làm thinh muôn đời
Thôi thì cứ nói cho vui
Nghìn năm chỉ có một đời muôn năm.

Làm sao quên được giọng cười ‘‘vui thôi mà’’ của thi nhân ? Giọng cười ấy vẫn còn đồng vọng khắp nơi trên mặt đất. Bất cứ ở đâu, nếu ai còn cảm được thi ca và phiêu lãng đều nói về Bùi Giáng với niềm rỡn tếu, bông đùa một cách vui vẻ thân mật, gần gũi như là anh em chí cốt ruột rà vậy. Đa số mọi người đều thấy đấy là một bậc vô sư tự ngộ, một Bồ tát nghệ sĩ đi về mặt đất trần gian chuyển hóa con người ta nên buông xả cái tâm chấp thủ, dính mắc vào danh lợi, để sống thanh thản an nhiên với niềm tự do vô quái ngại. Người thi sĩ thượng thừa đã về đã tới nơi chốn quê nhà, đã qui hồi cố quận, nằm ngắm trăng, đón gió cùng mây về hòa điệu khúc cung cầm vô thủy vô chung:

Tâm tình mấy nẻo mông lung
Ta nằm cố quận muôn trùng người đi.

Kỳ tuyệt cõi thi ca Bùi Giáng, thấm nhuần sâu sắc tư tưởng sự sự vô ngại, lý sự viên dung của pháp giới Hoa Nghiêm. Tư tưởng đó được thi sĩ tiêu dung, tiêu hóa và sáng tạo thành một nguồn thơ độc đáo. Hồn thơ như ngọn lửa thiêng ngời tỏa ánh hào quang, cháy bừng lên rực rỡ, làm ấm áp khắp mặt đất trần gian, chan chứa nồng nàn trong cõi người ta tha thiết thiên thu. Giữa thiên thu vạn đại, tôi xin kính tặng thi sĩ một bài thơ, để nhớ mãi những Ngày Tháng Ngao Du, chở thi sĩ đi lang thang khắp cùng ngõ hẻm Gò Vấp, Rong Rêu muôn nẻo Sài Gòn xôn xao phố thị phiêu bồng:

Không chỗ trú chẳng bến bờ
Vẫn bầu rượu với túi thơ dặm dài
Ngút mùa cuồng sĩ lai rai
Nghêu ngao vô sự hát bài Hoa Nghiêm
Có gì đâu phải đi tìm
Ba nghìn thế giới trong tim của mình
Tà tà giữa cuộc phiêu linh
Một hôm bất chợt thấy hình bóng xưa
Nên về cà rỡn bông đùa
Múa ca diệu dụng cùng mưa nắng cười
Miền hoan hỷ địa rong chơi
Khơi nguồn sáng tạo mở trời đất ra.

-o0o-
Lang thang sĩ Tâm Nhiên và thi sĩ Bùi Giáng, một chiều
phiêu diêu lãng đãng ở Gò Vấp, Sài Gòn (7- 1993)
 
________________________________________________________________

* Nguyễn Hữu Hiệu. Con Đường Sáng Tạo. Hồng Hà xuất bản, Sài Gòn 1973.
** Nguyễn Tường Bách. Mùi Hương Trầm. Trẻ xuất bản 2001.
*** Phạm Công Thiện. Henry Miller. Phạm Hoàng xuất bản, Sài Gòn 1969.
Thơ văn Bùi Giáng trích trong các tác phẩm: Mưa Nguồn, Lá Hoa Cồn, Sa Mạc Phát Tiết, Sa Mạc Trường Ca, Rong Rêu, Như Sương, Đêm Ngắm Trăng, Mùa Màng Tháng Tư, Ký Ức, Trúc Mai, Mười Hai Con Mắt, Rớt Hột Phiêu Bồng, Bèo Mây Bờ Bến. Thơ Vô Tận Vui, Thúy Vân, Mùa Xuân Trong Thi Ca, Tư Tưởng Hiện Đại, Lời Cố Quận, Lễ Hội Tháng Ba, Ngày Tháng Ngao Du.