Hiển thị các bài đăng có nhãn NON MAI - SÔNG HÃN. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn NON MAI - SÔNG HÃN. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 23 tháng 10, 2017

Núi đồi quanh làng Mai Lãnh








  • Bài và ảnh: Đoàn Văn Trí


Năm 1965, tỉnh Quảng Trị có thêm quận Mai Lĩnh (*). Lần đầu nghe được địa danh này, bọn học sinh chúng tôi cũng có tìm hiểu và chỉ biết được rằng quận nầy được thành lập thay cho quận Ba Lòng và đặt tên theo một ngọn núi ở vùng thượng nguồn sông Thạch Hãn. Từ đó, chúng tôi nghe quen dần biểu tượng “Non Mai - Sông Hãn” nhưng chỉ thấy sông mà không thấy núi. Rồi cuộc chiến ở vùng địa đầu ngày càng khốc liệt, chẳng ai có dịp lên thượng nguồn thưởng thức vẻ đẹp của cặp đôi Sông Hãn - Non Mai. Tôi đã quên dần biểu tượng này và chỉ còn nhớ địa danh “chi khu Mai Lĩnh”, nằm ngay đầu đoạn quốc lộ 1 mới (Long Hưng - Mỹ Chánh), lúc đó còn gọi là “cải lộ tuyến”, làm xong khoảng năm 1969.
Chỉ vậy thôi, cho đến năm 2016, sau khi xem tập ký sự ảnh “Quảng Trị Đi Nhớ Về Thương” rồi có dịp cùng tác giả Phạm Đình Quát trò chuyện nhiều về thiên nhiên của Quảng Trị và cùng đặc biệt chú ý đến địa danh Mai Lĩnh, hẹn sẽ thực hiện một chuyến du khảo, ngắm Non Mai - Sông Hãn. Sau thời gian cùng tìm kiếm, trao đổi tài liệu, hỏi thăm một số người từng sống ở vùng chiến khu Ba Lòng thuở xưa... cuối tháng 4-2017, chúng tôi cùng với mấy người bạn ở địa phương cùng tìm vào thôn Khe Luồi, xã Mò Ó, huyện Krong Klang, nơi ngày xưa có ngôi làng Mai Lãnh.

Tới thị trấn Krong Klang
Đây là lần đầu tiên tôi tới thị trấn này, hơi bất ngờ vì thấy nó cũng khá bề thế, hiện đại (các quán café có wifi, cô lái đò dấu cái Iphone dưới nón phát nhạc phục vụ khách sang sông... Tỉnh lộ 588A từ ngã ba thị trấn huyện, nối với QL9 vào tận Ba Lòng dài 17km trải bê tông, ô tô hay xe máy đều chạy thoải mái. Nhưng tiếc là do nhà quán xây ven sông chắn mất tầm nhìn nên tôi không có được cảm giác vỡ òa khi tới đoạn đường 9 gặp sông Thạch Hãn mà tôi hằng tưởng tượng.
Từ ngã ba thị trấn Krong Klang rẽ vô con đường nhỏ ra bờ sông chỉ vài trăm mét, chúng tôi gửi xe máy rồi qua sông bằng đò máy. Sông Thạch Hãn đoạn chạy sát thị trấn (rồi men theo QL9 về phía tây, qua cầu treo Dakrông) có lòng sông hẹp nhưng khá sâu. Qua sông rồi leo lên một dốc nhỏ, đi thêm một đoạn khoảng hơn 500m là vào xóm Mai Lãnh, thuộc thôn Khe Luồng, xã Mò Ó.
Dân cư ở đây hiện nay phần lớn là người dân tộc nhưng không cư trú lâu đời, có gặp một người già nhưng ông này lại mới quay về từ Quảng Bình sau 1975. Không gặp được ai biết chính xác núi Mai Lĩnh là ngọn núi nào. Chỉ biết khe…, đôộng …

Tuy nhiên họ cũng cho biết là cư dân Mai Lãnh xưa có một nghĩa địa riêng nhưng phần lớn lăng mộ đã được cải táng và di về làng Cổ Thành. Theo người dẫn đường đi theo đường chính của thôn, xuống khu rẫy, băng ngang qua một sân trường đi thêm một đoạn, chúng tôi tìm thấy một khu đất hình chữ nhật có bờ bao rõ ràng kích thước 60x30m, vẫn còn một số bia mộ phần lớn ghi quê quán người dưới mộ là làng Cổ Thành. Đặc biệt có một lăng mộ lớn, nằm chính giữa cạnh phía tây bắc, vị trí trang trọng, còn nguyên vẹn do mới được trùng tu, bia mộ ghi:
  
PHỤNG VỊ
THỦY TỔ
(TIỀN KHAI KHẨN)
TRẦN LƯU QUẬN
NGUYỄN QUÝ CÔNG
THẦN HỒN CHI LĂNG MỘ
====
HẬU DUỆ CÁC TỘC
NGUYỄN-PHAN-LÊ
CƯ DÂN CŨ CỦA LÀNG MAI LÃNH
ĐỒNG PHỤNG LẬP
Ngày 25-4, Tân Mão (2011)

(Hình 1)

Bia cho biết đây là lăng mộ của "Ngài Tiền Khai Khẩn" (qui dân lập làng) của làng Mai Lãnh. Nguyễn Quý Công không phải là tên thật (theo phong tục thì không ghi tên thật của người chết) mà ghi như vậy thì có thể hiểu rằng người dưới mộ họ Nguyễn, là nam nhân, mất sau 50 tuổi. Trần Lưu Quận là quê quán nhưng do người xưa thường ghi quê quán theo các quận bên Tàu (họ Nguyễn ghi Trần Lưu Quận) nên việc ghi Trần Lưu Quận ở đây không giúp phân biệt là gốc Hoa hay Việt.
Như vậy, chúng tôi biết chính xác vị trí của làng Mai Lãnh xưa, nhưng nay qua nhiều thay đổi chỉ còn lại tên xóm Mai Lĩnh (không biết có được ghi chính thức trong hồ sơ của xã Mò Ó không)

Đi ngắm và chụp hình Non Mai - Sông Hãn
Quay lại thị trấn Krong Klang, chúng tôi ăn vội bữa trưa và sau đó theo TL588A, dọc tả ngạn sông Thạch Hãn trực chỉ Ba Lòng nhưng cũng dự kiến là chỉ cần chạy qua khỏi cầu tràn thêm một đoạn nữa thôi (chỉ còn cách Ba Lòng vài cây số), mục đích là để chụp hình núi Mai Lĩnh theo những vị trí có góc nhìn khác nhau. (Núi Mai Lĩnh đề cập ở đây là ngọn núi được Phạm Đình Quát ghi chú trong tập ký sự ảnh QTĐNVT).
Trước khi lên đường, chúng tôi đã đọc kỹ bài “Non Mai” của Yến Thọ (Tạp chí Cửa Việt số 207,tháng 12 năm 2011); nhưng nói thực, dựa theo mô tả vị trí núi Mai Lĩnh trong bài này rồi đem so trên bản đồ thì chúng tôi chịu, không thể xác định cái núi “bí hiểm” này nằm ở đâu?!

Trên đường, ghé vào nhà 1 cán bộ trẻ của xã Triệu Nguyên (bí thư xã) hỏi thăm về địa danh Mai Lĩnh thì anh này cũng chẳng biết gì nhiều dù anh có cho biết là đang tham gia biên soạn về lịch sử xã Triệu Nguyên; còn núi Mai Lĩnh thì hoàn toàn chưa nghe bao giờ (!).

Vào đến Km 10 và Km 11 (tính từ Ba Lòng ra, đoạn đường đèo quanh co) chúng tôi bắt đầu chụp hình, các ống kính đều quay về phía hữu ngạn thu hình ảnh núi đồi ven sông, dĩ nhiên là ngọn núi hình chóp vẫn đươc ưu tiên. Riêng tôi, để dễ xem lại tôi làm 1 clip thu hình núi sông từ xóm Mai Lĩnh cho tới đỉnh núi hình chóp, tức là từ xã Mò Ó cho đến xã Triệu Nguyên, đồng thời chụp theo khiểu panorama 4 hình để về ghép lại.

Đến ngầm sang Ba Lòng thì thấy núi hình chóp không giống hình chóp nữa (tôi không ngạc nhiên vì đã biết trước hình dạng của ngon núi nhờ đã xem bản đồ quân sự của vùng này (trước 75) và “bay” qua đây nhiều lần khi du hành bằng Google Earth (GE).

Chạy thêm một đoạn đến cầu Khe Cau, tưởng rằng sẽ gặp góc nhìn tốt nhất về đỉnh núi nhưng vì đến ngay chân núi rồi thì cây cối, nhà cửa che hết tầm mắt.

Lần đầu tiên được tận mắt nhìn cặp đôi Non Mai - Sông Hãn, thấy đúng là danh thắng của Quảng Trị. Bức tranh toàn cảnh tạo nên vẻ đẹp khó tả nhất là đối với một người không thuộc giới văn thơ. Hùng vĩ nhưng dịu êm, núi sông, trời nước, ruộng nương một màu xanh ngút ngàn. Cảm giác khoan khoái dù trời nắng gắt. Núi không cao nhưng chập chùng, sông không rộng nhưng uốn lượn với dòng chảy nhẹ, điểm một vài con đò nhẹ nhàng trôi. Khung cảnh làm tôi nhớ lời một bài hát tiếng anh: “… Once there were valleys, where river used to run Once there were blue skies with white clouds high above…” (Green field)

Thực tình mà nói, núi Mai Lĩnh (theo phỏng đoán của PĐQ trong tập ký sự ảnh) có tôn thêm vẻ đẹp nơi đây từ một số góc nhìn nhưng có những lúc không nhìn về đỉnh núi này ta vẫn thấy đẹp. Đứng trên ngầm Ba Lòng, nhìn lên, nhìn xuống thượng, hạ nguồn tả ngạn, hữu ngạn đều đẹp. Hình như một người cùng đi không thèm chụp hình ngọn núi mà chuyên lấy toàn cảnh nên dù chỉ dùng Ipad vẫn ghi được những khung hình xuất sắc.

Hình (2) chụp thực địa từ vị trí Km 11, TL 588A

Hình (3) trích từ Google Earth, từ vị trí Km 11, TL 588A với: độ cao +70 mét

Hình (4), chụp từ đoạn ngầm Ba Lòng (đập tràn qua sông Thạch Hãn)
Hình (5),  trích từ Google Earth, nhìn từ đoạn ngầm Ba Lòng ở độ cao +100 mét.


(Hình 6)
Hình (7)
(H.8) 
 Hình (9), Panorama (Từ Triệu Nguyên đến Mò Ó). So sánh hình chụp thực địa và hình trích từ Google Earth
Sau khi xem lại hình chụp panorama, tôi thấy có thêm một đỉnh núi khá cao ở phía sau (phía nam) làng Mai Lãnh nên khảo sát lại trên GE thì thấy đỉnh nầy cao 813m, đỉnh bên Triệu Nguyên cao 801-802m, có 1 đỉnh khác bên Ba Lòng cũng cao trên 800m nhưng thuộc núi Đá Bàn.
 Từ đoạn  đường chữ U nhìn thấy cả 2 đỉnh : đỉnh 802m bên trái (theo PĐQ), đỉnh  813m gần làng Mai Lãnh xưa nhưng bị che khuất nhiều và có thể là đỉnh núi nằm lấp ló phía sau đỉnh đươc chỉ trong hình, đỉnh 802 gần sông hơn và ít bị che khuất.
Lý do không thể xác định vị trí núi Mai Lĩnh theo mô tả trong bài “Non Mai” của Yến Thọ vì tác giả không trình bày bằng bản đồ. So bản đồ với mô tả (tóm tắt trong bảng bên dưới) thì cũng chịu. Mong các bạn thử kiểm tra lại xem tôi có nhầm chỗ nào không?

Hình (10)

Theo mô tả của Yến Thọ, tác giả bài Non Mai (đã dẫn trên), thì vị trí đỉnh núi Mai Lĩnh thuộc địa phận xã Mò Ó (trước đây thuộc xã Triệu Nguyên); từ trung tâm huyện Krong Klang, vị trí núi ở về phía tây nam (tức là hướng cầu treo Dakrông). Ngược lại, nếu từ đỉnh núi thì thị trấn huyện Krong Klang ở về phía đông bắc và QL14 trên địa phận Trại Cá, Ta Long nằm về phía tây.

Trong bản đồ, tôi có chấm thêm trên bản đồ mấy vị trí: KK (Krong Klang), ML (xóm Mai Lĩnh), đỉnh 813 và đỉnh 802.
Xếp chung mô tả 3 vị trí trong 1 bảng thì đỉnh núi Mai Lĩnh trong bài Non Mai không trùng với hai đỉnh cao hơn 800m ở vùng này.
Vị trí của
Thuộc xã
Nhìn từ thị trấn huyện
Nhìn từ đỉnh núi
Quốc lộ 14 
Năm trong khu vực Mai Lĩnh
Căn cứ Mỹ cũ
Từ Xuân Lâm nhìn thấy
trên đỉnh có khoảng đất trống
đỉnh núi ML trong bài Non Mai
Mò Ó
thì núi ở về phía tây nam
thị trấn huyện ở phía đông bắc
đoạn Trại cá Ta Long ở phía tây
không
đỉnh 813
Dakrông
nam
bắc
đông nam
căn cứ   Henderson
nhưng bị che khuất nhiều
không
đỉnh 802
Triệu Nguyên
đông nam
tây bắc
nam
không
không
trông giống tảng đá lớn

Xem trên bản đồ quân sự của vùng quanh làng Mai Lãnh thấy lạ: nhiều núi lớn nhỏ khác nhau đều có tên: Núi Đá Bàn, Đông Ca Lư, Núi Ba Hồ, Đông Riang Tuan (605), Núi Giang Gió, Động Ba Le (1102), 2 ngọn núi mà 1 trong 2 được cho là núi ML thì 1 lại không có tên mà chỉ ghi là đỉnh 818 (tương ứng với đỉnh 802 trên GE) và 1 thì ghi Động Chó (chắc là Ché) duới thấp mà không ghi gì ở đỉnh (các chữ lớn màu nâu là tên các cứ điểm của lính Mỹ, chữ đỏ là do tôi ghi thêm, độ cao trong bản đồ này không giống độ cao trong GE, trong bản đồ thường cao hơn 10-20m). Bản đồ kiểu nầy thường được lấy từ bản đồ gốc của Nha Địa Dư Quốc Gia.
 
Hình (11)

Phải chăng Núi Mai Lĩnh không có địa danh chính thức vào thời VNCH?

Ngoài ra trên bản đồ địa hình này cũng cho thấy về phía tây nam Krong Klang trong khoảng 10km không có ngọn núi nào (kiểm tra lại trên GE cũng vậy).

Hình (12)

Về chuyện người địa phương gọi động này, động kia có khi muốn nói tới các đồi nhấp nhô ven sông, vì theo tiếng Quảng Trị, “động” nhưng thực ra là “đô-ộng”(có thể đọc theo giọng Huế như ‘độn”) đồng nghĩa với “đồi” (phương ngữ Quảng Trị không có chữ “đồi”). Người địa phương sinh sống, canh tác ven và trên các đô-ộng mà không quan tâm lắm đến các điểm cao nên không gọi núi này núi nọ. Nếu ai không biết chuyện này sẽ nghĩ ở Quảng Trị có hang động khắp nơi. Có điều núi Ta Linh cao trên 1700m vẫn được gọi là “đô-ộng Voi Mẹp” chắc là vì nhìn từ sườn đô-ộng Ca-lư thì thấy nó như thế này, giống con voi nằm nhưng trông không cao lắm!

Cũng có thể chỉ người đồng bằng mới phân biệt giữa núi và đồi (đô-ộng), còn người trung du miền núi thì đồi hay núi gì cũng được gọi là “đô-ộng”.

Thử bàn vài giả thuyết thay cho lời kết
Qua mấy chuyện khó hiểu trên, tôi nghĩ ra một giả thuyết khác về chuyện núi ML: Có thể do vấn đề ngôn ngữ đã làm cho ngọn núi trở thành bí hiểm.

Ban đầu, khi mới đến ngụ cư ở vùng này, ngài tiền khai khẩn tự đặt tên Mai Hoa cho trang trại của mình vì ở đây có nhiều hoa mai. Về sau khi dân số phát triển, do biết chăm sóc cây mai nên hoa mai ngày một nhiều, đã biết cách điều khiển để mai nở đúng dịp tết…

Đến một  thời đã có nhiều người Hoa di cư sang VN (dạng người Minh Hương, ban đầu vẫn nói tiếng Hoa) đến cư ngụ nhiều vùng Cam-Lộ, Cùa và có thể cả ở Mai-Lĩnh. Một ngày xuân, hoa mai nở rộ khắp làng thành cả rừng mai, những người nói tiếng Hoa (khách) tán dương cảnh này: "Cái lày là Mei-lin dzồi chứ sao còn là Mai Hua, tiên sinh khiêm tốn quá” và chủ (người Việt, biết nói tiếng Hoa) cũng hưởng ứng: “Phải lắm! gọi là Mai Lĩnh  thì mới xứng”. Và từ đó phường Mai Hoa đổi tên thành phường Mai Lĩnh.

Nhưng khổ nổi, hồi đó chưa có chữ quốc ngữ dùng mẫu tự latin để phiên âm như bây giờ mà phải dùng chữ Hán. Người Hoa và những người có biết chút tiếng Hoa thì sẽ ghi là · với nghĩa là rừng mai và vẫn đọc là Mai Lĩnh, người không biết chữ cũng gọi theo là Mai Lĩnh, nhưng người biết chữ Hán mà không biết tiếng Hoa thì có thể đọc là Mai-Lâm. Dù sao thì khi nói, mọi người đều gọi là phường Mai Lĩnh hoặc làng Mai Lĩnh và ca ngợi vẻ đẹp của núi sông ở Mai Lĩnh và coi toàn bộ núi đồi quanh đó là núi Mai Lĩnh.

Triều đình Huế cũng nghe về danh thắng này và cử quan ra Quảng Trị tuần thám, quan thì giỏi chữ Hán nhưng không biết nói tiếng Hoa nên phán: “Mai Lĩnh phải viết như thế này mới đúng ”. Quan viết như là phiên âm mà không nghĩ đến nguồn gốc của tên Mai-Lĩnh. Về sau có quan khác (chức nhỏ hơn) thắc mắc về chuyện này thì quan lớn thấy cũng đúng, nhưng ỷ thế lớn và thâm nho hơn nên quan lớn bảo: "Tao viết thế là để mọi người đều đọc là Mai Lĩnh và tiện thể để tả hình dáng ngọn núi luôn” và gán cho chữ Mai lĩnh (枚嶺) nhiều ý nghĩa giống với một ngọn núi dễ thấy nhất. Không biết người Hoa và người làng Mai Lĩnh họ có công nhận ý kiến của quan lớn không nhưng quan nhỏ thì phải thưa “Dạ đúng là cao kiến”.

Có lúc tên đã lên bản đồ nhưng vị trí không thể chính xác với cách vẽ bản đồ thời đó và sách cũ chỉ ghi được Mai Lĩnh Sơn như sau: Núi Mai Lĩnh ở phía tây huyện Thành Hóa (cuối trang 157 Đại Nam Nhất Thống Chí).

Cũng trong trang này ghi rõ núi Mang và núi Mai Lĩnh là 2 núi khác nhau. Lại có thêm núi Mai Đàn? (có thôn Mai-Đàn bên vùng Cùa)

Trong dân gian, các bậc thức giả Quảng Trị cũng thấy rằng trong Huế có sông Hương-núi Ngự thì  Quảng Trị cũng có Non Mai Sông Hãn và rồi ghi Mai Sơn mà không ghi Mai Lĩnh Sơn trong các câu đối, văn tự… và cũng né được việc tranh cãi về chữ Mai Lĩnh.
Non Mai-Sông Hãn đẹp thật nhưng lại như “Cô gái ngủ trong rừng” nên chỉ có giới trí thức, thân hào, nhân sĩ ở Quảng Trị quan tâm. Triều đình nhà Nguyễn có vẻ cũng quên dần Non Mai-Sông Hãn. Thời VNCH, có ông tỉnh trưởng Đông quan tâm tới vùng này theo cách khác. Rồi sau 1963, cái tên Mai Lĩnh lại được quan tâm và quận Mai Lĩnh ra đời dưới thời ông Hoàng Xuân Tửu.

Tuy vậy vẫn có vẻ như núi Mai Lĩnh chưa được chính thức chấm tọa độ và đặt tên bởi Nha Địa Dư Quốc Gia và cho đến bây giờ vẫn chưa xác định rõ: Non Mai là một ngọn núi thôi hay là cả vùng núi đồi quanh làng Mai-Lãnh xưa?
Gần như mù chữ Hán, đành phải dùng Google dịch.

Xin cảm ơn các bạn đã chịu khó xem và phát hiện giúp các sai sót. Đa tạ!
___________________________________________________________
(*) Theo Nguyễn Đình Tư chép trong sách "Non Nước Quảng Trị", NXB Đại Học Quốc Gia TPHCM-2011, trang 145: Quận Mai Lĩnh được thành lập theo Nghị định số 880-NV, ngày 11-6-1965 của phủ Thủ tướng VNCH, bao gồm 6 xã (30 thôn) của quận Hải Lăng (Quảng Trị, Hải Trí, Hải Quy, Hải Thượng, Hải Phú, Hải Lệ) và một xã của quận Triệu Phong (Triệu Thượng).

(Hình 10): https://l.facebook.com/l.php?u=http%3A%2F%2Fdakrong.quangtri.gov.vn%2Findex.php%2Fvi%2Fgioi-thieu%2FBan-do-hanh-chinh%2FBan-do-huyen-Dakrong-7%2F&h=ATMexcqBymnO8BIIzx5dCmtyxeRocR6632vMVJfWFPHSYkWOaFCuLHGpcHU1BbhVxu3JHnXCM2XqCf7uLSJP8ILBZhdKrMhbPZsW9fJcpVVOHNVqDWJvtPHFmYnZK9ASNvJeZzSBWtByEA

(Hình 11): https://l.facebook.com/l.php?u=http%3A%2F%2Fwww.506infantry.org%2Ffiles%2F2114%2F0745%2F8993%2Fquangtrimap.jpg&h=ATMexcqBymnO8BIIzx5dCmtyxeRocR6632vMVJfWFPHSYkWOaFCuLHGpcHU1BbhVxu3JHnXCM2XqCf7uLSJP8ILBZhdKrMhbPZsW9fJcpVVOHNVqDWJvtPHFmYnZK9ASNvJeZzSBWtByEA

Thứ Bảy, 2 tháng 9, 2017

Non mai


  • Yến Thọ

Người Quảng Trị từ nhiều đời nay đã khá quen thuộc với cặp đôi sông núi Non Mai - Sông Hãn. Non Mai đi kèm với sông Hãn là đất nước, là giang sơn, là địa linh, là khí thiêng và là biểu trưng văn hóa của một vùng đất Quảng Trị.

Cặp đôi sông núi được chọn làm biểu tượng văn hoá này thuộc về người Việt, văn hoá Việt, do người Việt định dạng, tôn vinh và có quá trình định hình chính thức kể từ khi thủ phủ, trung tâm hành chính, chính trị của tỉnh (dinh, trấn, đạo) Quảng Trị được thiết lập ven bờ sông Thạch Hãn.

Sông Thạch Hãn (石捍江/Thạch Hãn giang/sông Hãn/Nguồn Hàn) - long mạch chủ của toàn vùng Quảng Trị thì không ai là không biết, bởi lẽ nó hiển hiện trên Quốc lộ 1 đi qua thị xã Quảng Trị nhỏ nhắn, nên thơ, gần với Thành Cổ mà người Quảng Trị cũng như khách thập phương đều ít nhất có một lần ghé đến. Thạch Hãn là dòng sông có dòng chảy rộng dài đi qua nhiều vùng địa hình, nhiều khu vực hành chính từ rừng xuống biển; từ đồi núi xuống đồng bằng; từ thượng nguồn về hạ lưu; từ các bản làng đồng bào dân tộc thiểu số đến các xóm thôn người Việt; từ kẻ mọi xuống kẻ ruộng, kẻ chợ, kẻ biển. Sông Thạch Hãn còn là dòng sông chứa đựng nhiều dấu ấn lịch sử, văn hoá, nơi chứng kiến bao nổi thăng trầm dâu bể của lịch sử, con người và thời cuộc. Thế nhưng, Non Mai / núi Mai Lĩnh thì không phải ai cũng có cơ hội, điều kiện, cơ duyên để một lần được đặt chân lên chốn này. Sông thì hiện hữu, gắn bó mật thiết với từng phận người vì nước là nguồn sống sinh hoạt, sản xuất, đi lại; còn núi thì thường mờ xa tận đâu đó, nơi hang sâu, rừng thẳm, ít hoặc thậm không mấy liên quan đến đời sống con người nên nếu không vì một mục đích cụ thể thì dù kể cả những người sống trong khu vực cũng chẳng mấy quan tâm.

Chính vì thế, Non Mai / núi Mai Lĩnh ở đâu?, nhiều năm nay là câu hỏi ít có lời đáp thoả đáng.

Non Mai có tên chữ Hán là Mai Lĩnh sơn 枚嶺山- Núi Mai Lĩnh.Trong các tài liệu thư tịch cổ viết chữ Mai là 枚, với nghĩa là cái, quả, gốc cây; hoặc theo nghĩa là cái vú chuông; còn nhiều làng xã trong dân gian lại viết chữ Mai là 梅, với nghĩa là cây mơ, cây mai hoặc với nghĩa là mùa. Cả hai nghĩa của từ này đều được các nhà văn nghệ hiểu theo mỗi người mỗi cách. Chữ Lĩnh 嶺 trong từ Mai Lĩnh nghĩa là đỉnh núi có thể thông ra đường cái. Như vậy. Mai Lĩnh hiểu theo nghĩa chiết tự Hán - Nôm thì đó là ngọn núi hình vú chuông có thể thông ra đường cái hoặc cũng có thể hiểu nó là ngọn núi có gắn (hoặc có liên quan) với cây mơ/mai và có thể thông ra đường cái.

Nhà thơ Lương An diễn nghĩa hai từ Mai Lĩnh đầy chất tuỳ hứng thi ca và cho là “Mai Lĩnh, cái tên chữ của nó có nghĩa là “ngọn núi vú chuông”, hai sườn cân đối, chóp chĩa thẳng nhọn lên trời, dường như đánh vào thì sẽ thành tiếng ngân xa nghìn dặm. Từ Đông Hà, theo đường số 9 đi lên, khi qua khỏi Tân Lâm, hễ gặp sông Thạch Hãn thì thấy nó. Núi và sông như đôi tri kỷ không rời nhau, tăng thêm vẻ đẹp cho nhau. Mùa xuân hoa mai nở vàng, hoa chè nở trắng hai bên sườn thoai thoải. Một mùi hương dịu tỏa xa, ướp thêm hương vị cho dòng nước thêm trong, thêm thơm ngát” (1).

Tác giả Đinh Xuân Vịnh khi biên soạn “Sổ tay địa danh Việt Nam” thì diễn theo tên chữ Mai là hoa mai và định vị: “Mai Lĩnh (hay Mai Lãnh) ở huyện Hướng Hoá, tỉnh Quảng Trị, trên đường quốc lộ 9, ở km 40, bên sông Thạch Hãn, núi ở huyện Hướng Hoá, đầy mai vàng” (2).

Tuy nhiên, nói và viết vậy nhưng không chắc rằng các nghệ sĩ này đã từng đến Mai Lĩnh, hoặc ít nhất có một cơ hội nào đó từng đặt chân lên Non Mai.

Nhà Văn Xuân Đức trong một đề án xây dựng khu văn hoá - du lịch Mai Lĩnh của Sở VH - TT Quảng Trị đã cất công đi tìm núi Mai Lĩnh và sau một “hành trình khám phá” đầy ngoạn mục cùng nhiều dẫn liệu đầy cảm tính từ các nhân chứng và từ chính tác giả đã đi đến khẳng quyết rằng Động Ngài - ngọn núi mà thư tịch cổ gọi là Động Mang / Mang Sơn (芒山) (3)là núi Mai Lĩnh/non Mai: “Động Ngài (kể cả hòn đá vôi cao đẹp phía đầu và cả dãy động nhấp nhô kéo về tận phường Mai Lĩnh), chính là động Mai Lĩnh. Như vậy, ta có thể ghi lên bản đồ vùng đó những dãy núi chính như sau: Phía bắc và tây bắc là dãy núi Kalu, phía đông là Động Toàn, phía nam là Động Chè, tất cả bọc lấy khu Mai Lĩnh” (4).

Trong tập bản thảo “Tên những đường phố Đông Hà”, tác giả Hoàng Hữu Phong cũng định vị núi Mai Lĩnh một cách khá cụ thể nhưng đầy cảm tính: “Mai Lĩnh có đỉnh cao 118m so với mặt thuỷ hải chuẩn, nơi đó có một diện tích 38 ha là kho đá quý. Dưới chân vùng núi Mai Lĩnh có khe Động Chè, bắt nguồn từ Động Chè phía nam núi Mai Lĩnh, thường có nước quanh năm đổ về nguồn Hàn. Mai Lĩnh ở về phía tây nam và cách huyện lỵ Đakrông khoảng 3km” (5).

Công cuộc lần tìm về với Mai Lĩnh trên thực địa đã được các cán bộ nghiên cứu của Bảo tàng Quảng Trị (cả một số người yêu mến và tò mò về Mai Lĩnh của Trung Tâm Bảo tồn DT&DT) dưới sự hỗ trợ thông tin của những bậc cao niên và sự hướng dẫn của người những người thợ rừng, thợ sơn tràng làng Xuân Lâm, Na Nẫm (Triệu Nguyên) trong 2 đợt:

+ Đợt 1: Ngày 20 tháng 10 năm 2004 (6).
+ Đợt 2: Ngày 15 tháng 8 năm 2010 (7).

Tìm về với núi Mai Lĩnh/Non Mai đối với những người nghiên cứu thuộc thế hệ hiện nay tuy là sự mò mẫm nhưng không có gì khó khăn nếu người muốn tìm chịu khó leo núi và chịu khó định hướng trước lối tư duy của mình. Điều này không có gì phức tạp và cũng không thể là gì khác hơn ngoài việc căn cứ vào cả hai nguồn tư liệu: văn tự và hồi cố.

Về mặt văn tự, các nhà địa chí triều Nguyễn tuy không mô tả cụ thể về Mai Lĩnh sơn mà chỉ ghi lại một dòng ngắn ngủi, vắn tắt: “Núi Mai Lĩnh ở phía tây huyện Thành Hoá” (8) vì có lẽ không ai có điều kiện để lên đến núi này khi mà núi cao, rừng rậm, lắm thú dữ; còn nhìn từ dưới lên thì không thể dễ dàng xác định. Nhưng các bản đồ vẽ về thế sông, hình núi của từng vùng trong địa hạt Quảng Trị thì được cước chú khá rõ về địa điểm.

Bản “Thừa Thiên toàn đồ” (9) lập thời Tự Đức là tài liệu được coi là cổ nhất hiện biết có chú bằng chữ Hán khá nhiều các ngọn núi trên khắp địa hạt Quảng Trị như: Tá Linh sơn, Hắc Thạch sơn, Mang sơn, Mai Đàn sơn, An Thái sơn...; trong đó có Mai Lĩnh sơn (枚嶺山). Địa điểm của Mai Lĩnh sơn nằm về phía nam Mang sơn 芒山(tức Động Ngài - núi thiêng của người Vân Kiều, nằm trên hữu ngạn của sông Đakrông) và về phía tây bắc của An Thái sơn 安泰山; bên hữu ngạn của Thạch Hãn giang nhưng cách một quảng khá xa chứ không sát bờ sông. Phía đông núi Mai Lĩnh là sông Thạch Hãn; hai phía bắc và tây là sông Đakrông lượn vòng.

Bản đồ “Đăng Xương, Hải Lăng nhị huyện hạt” lập thời Đồng Khánh tuy không cước chú núi Mai Lĩnh khi vẽ ngọn núi ở thượng nguồn sông Thạch Hãn, được coi là nơi phát nguyên của con sông này; nhưng trong khu vực của núi có chú Mai Lĩnh phường 枚嶺坊nằm trên sông Thạch Hãn cùng với Trinh Thạch phường 貞石坊 - hai làng Việt hình thành sớm nhất trên vùng thung lũng Ba Lòng. Bản đồ này cho thấy núi Mai Lĩnh nằm ở thượng nguồn sông Thạch Hãn. Và vì có núi Mai Lĩnh nên một phường hiệu của người Việt trong quá trình chuyển đổi tên gọi đã mang tên ngọn núi. Điều này cũng cho thấy tên Mai Lĩnh sơn hầu như chỉ được các nhà địa chí triều Nguyễn (hoặc những người biết chữ Hán) đặt cho từ thế kỷ XIX (cụ thể là thời Tự Đức) với một hàm ý rất Hán; còn trước đó, núi hoặc không có tên hoặc chỉ mang một danh xưng nào đó theo cách gọi của dân gian như: Động Trăn, Động Chấn, hay động Ché. Bởi vì, trước khi được đổi thành phường Mai Lĩnh thì từ thế kỷ XVIII, đơn vị hành chính này đã mang tên phường Mai Hoa 枚花坊. Có phường Mai Hoa nhưng không có núi Mai Hoa. Vậy là cơ sở để có thể tiếp cận danh xưng của Mai Lĩnh là từ Mai Hoa.

Khi có được tên núi Mai Lĩnh thì tên phường Mai Hoa cũng thay đổi theo tên núi. Hành trình ngoạn mục này chỉ xảy ra từ thời Tự Đức (vì các nhà địa chí thời Gia Long mặc nhiên đã không nói gì đến tên núi hay phường Mai Lĩnh) và do những nhà địa chí, những trí thức Hán học người Việt dựng đặt, vinh danh làm cho tên cục mịch, quê mùa dân gian Động Ché, Động Trăn... trở thành tên kiêu sa, đài các của một ngọn núi được chọn làm biểu trưng: Mai Lĩnh sơn, xứng đôi với một dòng sông vốn cũng được Hán hóa rất cao độ: Thạch Hãn giang. Điều này cũng lý giải tại sao Tá Linh sơn còn có tên là Động Voi Mẹp; Linh sơn còn có tên là Động Lòi Reng; còn Mai lĩnh sơn thì chỉ gọi là non Mai - một danh từ được đánh bóng đầy tính biểu tượng.

“Thừa Thiên toàn đồ” và “Đăng Xương, Hải Lăng nhị huyện hạt đồ” (cùng với các bản đồ về đạo Quảng Trị trong “Đồng Khánh địa dư chí”) có thể nói là những cơ sở đáng tin cậy để đi tìm địa điểm toạ lạc của núi Mai Lĩnh.

Hai bản sơ đồ của 2 tác giả người Pháp là Delvaux và H. Pirey khi dựng lại kiến trúc thành Tân Sở vào năm 1914 và 1942 (10) có cước chú đường đi Mai Lĩnh từ Cam Lộ lên băng qua khu vực thành hướng về phía nam theo đỉnh động Ho để vượt đèo 365 vào Ba Lòng, xuống Na Nẫm, Xuân Lâm.

Động Ho nằm về phía nam thành Tân Sở và cũng là phía nam làng Lộc An (Cam Chính) vùng Cùa. Về phía nam Động Ho (Động Mặt Nạ) cũng là làng Na Nẫm, Xuân Lâm (Triệu Nguyên) nằm bên tả ngạn Thạch Hãn. Đường từ Cùa băng qua Tân Sở, vượt đèo 365 đến Bình Trị có một nhánh xuống Na Nẫm, một nhánh xuống Ba Lòng. Nhánh xuống Ba Lòng ở khu vực Làng Hạ. Nhánh xuống Na Nẫm qua sông Thạch Hãn ở làng Xuân Lâm rồi theo khe Làng An lên Mai Lĩnh đến Trại Cá (phía tây núi Mai Lĩnh, bên sông Đakrông). Con đường này từ khi có đường nối từ Quốc lộ 9 ở KM 41 vào vùng Ba Lòng thì không còn được phát huy vai trò đầy đủ của nó. Nhưng từ xa xưa và nhất là thời Pháp thì đây cũng chính là một tuyến quan trọng của con đường thượng đạo xuyên sơn.

Đường từ Cùa vượt đèo 365 qua Ba Lòng lên Mai Lĩnh theo khe Làng An đến Trại cá do tỉnh trưởng Quảng Trị là Nguyễn Văn Đông cho mở và xây các cầu cống vượt khe vào những năm 1958 - 1959. Nguyễn Văn Đông có một đồn điền ở vùng Cùa; nay vẫn còn dấu tích một ngôi biệt thự cũ của gia đình Tỉnh Đông nằm bên trái đường đèo Cùa. Để thuận lợi cho việc khai thác gỗ, các loại lâm đặc sản từ vùng núi rừng phía tây bao la, Nguyễn Văn Đông đã cho đầu tư mở mang và thiết lập nên một con đường nối Cam Lộ với Cùa và Ba Lòng lên thượng nguồn sông Đakrông. Con đường này được hoạch định dựa trên cơ sở con đường mòn từ Cùa lên Mai Lĩnh đã hình thành từ trước đó. Đây chính là con đường thượng đạo - con đường mà ngự đoàn Hàm Nghi đã đi khi rời khỏi thành Tân Sở qua thung lũng Ba Lòng (Xuân Lâm), lên Mai Lĩnh vượt sông Đakrông sang Trại Cá (Tà Long) để lên Lao Bảo, qua Lào sau ngày 26-7-1885.

Con đường này người dân vùng Ba Lòng quen gọi là đường Bà Cả (chị cả của Tỉnh Đông). Tuy nhiên, việc mở con đường từ Làng An đi Trại Cá thực hiện nửa chừng thì bỏ dở do chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ. Ngày nay, những người thợ rừng vùng Ba Lòng vẫn sử dụng để đi lên Động Trăn, Động Chấn, Mai Lĩnh để khai thác gỗ. Dấu tích để lại của con đường này là 4 mố cầu xây bằng đá và xi măng vượt khe còn có các tên là Cầu 1, Cầu 2, Cầu 3, Cầu 4.

Về mặt hồi cố, Mai Lĩnh sơn/non Mai là cặp đôi sông núi biểu trưng của người Việt, của không gian văn hoá Việt. Nó chỉ gần gũi, thân quen và đi vào tâm thức của người Việt - bắt đầu từ người Việt vùng phía nam Quảng Trị thuộc hai huyện Triệu Phong và Hải Lăng; sau mới lan dần ra để trở thành biểu trưng, nhập thân vào dân Việt cả vùng Quảng Trị. Người Vân Kiều đương nhiên sẽ không biết và họ không cần gì phải biết khi sông thiêng của họ là Đakrông và núi thiêng của họ không phải là Mai Lĩnh. Tìm về với Mai Lĩnh phải tìm về với người dân Việt trên đôi bờ Thạch Hãn.

Những người Việt thuộc các làng vùng thung lũng Ba Lòng - những người thuộc thế hệ những năm chống Pháp và Mỹ sống tại vùng này và cả những thế hệ trẻ hơn về sau thường xuyên đi rừng với nghề sơn tràng thì không lạ lùng gì với Non Mai/Mai Lĩnh. Đứng từ phía làng Xuân Lâm của xã Triệu Nguyên hay từ Phú Thành của xã Mò Ó, người dân địa phương có thể chỉ lên phía Động Trăn, Động Chấn (nằm phía bắc Động Chè và phía nam động Ché) và khẳng quyết đó là núi Mai Lĩnh.

Nếu có ai đó hỏi một cụ già vùng Ba Lòng rằng: Non Mai - Sông Hãn ở đâu? Người ta dễ dàng chỉ một tay xuống đất và một tay xiên lên trời mà nói: Thạch Hãn đây. Mai Lĩnh đó tề. Bởi thế nên nhạc sĩ Lê Anh trong một ca khúc viết về quê hương Quảng Trị đầy chất dân ca vùng Thạch Hãn: “Giọng hò thương nhớ” đã thốt lên bằng tâm cảm và cũng bằng cả sự hồn nhiên: Thạch Hãn đó, Mai Lĩnh là đây, biết mấy ân tình, giữa muôn trùng sông nước; nắng cháy bão bùng vẫn chung lòng sau trước. “Thạch Hãn đó, Mai Lĩnh là đây” là lời của nhạc sĩ Lê Anh hay cũng chính là lời của người dân địa phương chỉ cho tác giả về Non Mai - Sông Hãn (?!). Có thể có người đã từng lên đến núi Mai Lĩnh và nhiều người chưa bao giờ biết núi Mai Lĩnh ở đâu, nhưng từ trong tâm khảm của mình, người dân đôi bờ sông Thạch Hãn đều đinh ninh một cách chắc chắn rằng núi Mai Lĩnh phải nằm ở thượng nguồn sông này; và vì thế núi và sông mới trở thành cặp đôi của non nước Quảng Trị.

Vì thế, không hề đòi hỏi tiền lộ phí, tiền dẫn đường, những người từng lăn lộn với rừng, gắn bó bới rừng và thừa hưởng những đặc ân từ Động Chè, Động Ché, Đông Trăn, Động Chấn, Mai Lĩnh ở các làng Na Nẫm, Xuân Lâm luôn sẵn lòng đưa những người muốn tìm về với Mai Lĩnh lên đến đỉnh Non Mai trong khoảng thời gian chừng 6 - 8 tiếng đồng hồ băng rừng, lội suối, vượt dốc cả đi lẫn về theo con đường từ Xuân Lâm qua sông Thạch Hãn theo khe Làng An - đường Bà Cả, qua Động Trăn (hoặc Động Chấn).

Hành trình lên non Mai và về với Mai Lĩnh của các cán bộ nghiên cứu Bảo tàng Quảng Trị cùng Trung tâm Bảo tồn Di tích Danh thắng là sự mò mẫm để tìm hướng đi từ trong các văn bản thư tịch cổ, các tài liệu thành văn và cũng là tìm lối đi từ trong thực tiễn qua sự chỉ bảo, hướng dẫn và giúp rập của người dân địa phương và bằng nghị lực vượt khó để leo núi với tất cả tấm lòng yêu mến sông núi quê hương Quảng Trị. Các dữ liệu có được trong quá trình tìm kiếm chính là những cơ sở xác thực để định vị núi Mai Lĩnh.

Núi Mai Lĩnh hiện nằm trong Khu Bảo tồn Thiên nhiên Đakông, ở phía tây nam huyện lỵ Đakrông, trên bờ hữu ngạn của sông Thạch Hãn, thuộc địa phận xã Mò Ó (nguyên trước thuộc xã Triệu Nguyên), huyện Đakông. Núi nằm trong quần thể Động Trăn, Động Chấn, phía bắc Động Chè, phía nam Động Ché, có độ cao hơn 800m so với mực nước biển (theo bản đồ UTM là ở độ cao 843m). Số liệu “cao 118m so với mặt thuỷ hải chuẩn... diện tích 38 ha” do Hoàng Hữu Phong đưa ra là thiếu chính xác.

Núi có hình chóp tròn, hơi nhọn, xuôi dần nhiều hơn theo hướng tây - đông. Trên đỉnh có một khoảng đất bằng, hiện chỉ có lau lách và cây bụi. Khu vực này chính là một căn cứ quân sự được xây dựng thời Mỹ và cũng chính là một đồn binh được người Pháp thiết lập sau năm 1885. Đứng từ đỉnh núi Mai Lĩnh (hoặc động Chấn) có thể nhìn thấy thị trấn Krông klang ở về phía đông bắc và sông ĐaKrông, đường 14 trên địa phận xã Tà Ong (Trại Cá) ở về hướng tây.

Từ quần thể Động Trăn, Động Chấn, Mai Lĩnh có Khe Làng An chảy từ tây bắc xuống đông nam đổ vào sông Thạch Hãn ở địa phận làng Xuân Lâm. Khe Làng An cũng là hợp lưu với Khe Khế chảy theo hướng tây nam - đông bắc, phát nguyên từ phía Động Chè. Phía bắc quần thể Động Trăn, Động Chấn, Mai Lĩnh còn có Động Ché; khe Làng An chảy vòng phía đông; còn phía tây là khe Luồi. Khe Luồi chảy từ Động Ché xuống, đổ vào sông Thạch Hãn ở khu vực bản Luồi.

Nếu đứng ở làng Na Nẫm và bờ sông Thạch Hãn thì núi Mai Lĩnh nằm ở phía tây nam, nhưng không thể nhìn thấy vì núi bị khuất sau Động Trăn. Nếu đứng ở làng Xuân Lâm thì vừa nhìn thấy Động Trăn vừa nhìn thấy đỉnh của núi Mai Lĩnh.

Cần nói thêm rằng, phường Mai Hoa/Mai Lĩnh không nằm trong khu vực núi Mai Lĩnh mà là phía bắc núi Mai Lĩnh. Phường Mai Lĩnh nằm phía hữu ngạn sông Đakrông, đối diện với Làng Cát (gần cầu Đakrông); phía nam tiếp với Phú Thành. Phường Mai Lĩnh nằm phía nam Động Ngài. Từ Động Ngài về phía nam là một dãy động nhấp nhô kéo về tận phường Mai Lĩnh; nhưng đó không phải là núi Mai Lĩnh/Non Mai. Động Ngài được ghi trong bản đồ “Thừa Thiên toàn đồ” là Mang Sơn/núi Mang, cũng tức là động Mang. Sách “Đại Nam nhất thống chí chép: “Núi Mang ở phía tây nam huyện Thành hoá, cây cối rậm rạp, khe động gập ghềnh. Tương truyền hành khách đi đến núi này, tức phải tự mang gông ở cổ, khi qua đỉnh núi, vọng bái thần núi rồi tháo gông ra mà đi, làm như thế để cầu yên lành; tục gọi là động mang”. Người Vân Kiều gọi núi này là Kok Yang (núi thiêng, núi Giàng), diễn nôm là Động Ngài. Động Ngài không phải là núi Mai Lĩnh.

Trên núi Mai Lĩnh thì tuyệt nhiên không thấy cây mai. Rất có thể là đã bị phá hết. Từ năm 2004 đến nay, dọc theo con đường đi lên Mai Lĩnh, việc khai thác gỗ trái phép vẫn hàng ngày diễn ra. Rừng bị tàn phá nghiêm trọng. Rừng còn chẳng có, có đâu mai (!). Tuy thế, ở Động Trăn, dọc theo đường mòn có rất nhiều cây mai con - loại hồng diệp. Những người dẫn đường cho rằng trước đây vùng núi này có rất nhiều mai rừng.

Sông Hãn - Non Mai chính thức trở thành biểu trưng văn hoá kể từ khi lỵ sở, trung tâm hành chính, chính trị của tỉnh Quảng Trị đặt bên dòng Thạch Hãn. Kể từ đó, cặp đôi sông núi này nhập thân vào đời sống văn hoá của người dân đôi bờ Thạch Hãn; trở thành niềm ngưỡng vọng, tự hào của người dân Quảng Trị.

Các ngôi đình, đền miếu, nhà thờ họ ở các làng nằm dọc 2 bên bờ Thạch Hãn đều hướng ra sông. Người dân các làng xã vùng Triệu Phong, Hải Lăng không chỉ coi non Mai - sông Hãn là biểu tượng, là niềm tự hào về giang sơn gấm vóc mà còn là sự gửi gắm niềm tin về sức sống mãnh liệt, sự bền vững muôn thu về đất nước. Tinh thần này được thể hiện thông qua những câu đối, những vần thơ cảm tác được khắc tạc ngay trên các công trình văn hoá truyền thống ở nhiều làng xã.

Cặp câu đối trước cổng trụ đình làng Dã Độ viết: 枚山遠炤千年柱 / 捍水長流萬古春
Mai Sơn viễn chiếu thiên niên trụ/ Hãn thuỷ trường lưu vạn cổ xuân.

Cặp câu đối trước đình làng Thạch Hãn: 石嶺開建井疆遺跡前人存萬古 / 捍江潤培耕墾本鄉後世在千秋
Thạch Lĩnh khai kiến tỉnh cương di tích tiền nhân tồn vạn cổ / Hãn giang nhuận bồi canh khẩn bổn hương hậu thế tại thiên thu.

Cặp câu đối trước cổng đình làng Cổ Thành: 嫩枚日月門城千秋永 / 江永水和柱表百世歌:
Non Mai nhật nguyệt môn thành thiên thu vĩnh / Giang Vĩnh thuỷ hoà trụ biểu bách thế ca.

Cặp câu đối ở đình làng Đâu Kênh viết: 梅山懍烈對面結同鄉/ 捍水威丰中心炤五族:
Mai sơn lẫm liệt đối diện kết đồng hương / Hãn thuỷ uy phong trung tâm chiếu ngũ tộc.
Câu đối ở đình làng Mai Xá Thị viết: 枕後梅仙山鎮堡 / 按前捍越水潮迎:
Chẩm hậu Mai Tiên sơn trấn bảo / Án tiền Hãn Việt thuỷ triều nghinh.

Người dân trên các làng dọc sông Hiếu nhiều khi lại lấy Non Mai / Mai Lĩnh thay cho Tá Linh và coi Non Mai - Sông Hiếu là cặp đôi sông núi biểu trưng của tiểu vùng này.
Trước đình làng Nghĩa An (phường Đông Thanh) có 2 cặp câu đối: 孝水長流千秋在/ 西嶺高山萬古留: Hiếu thủy trường lưu thiên thu tại / Tây Lĩnh cao sơn vạn cổ lưu
Hoặc: Tô bồi rực rỡ ngời SÔNG HIẾU / Trang điểm huy hoàng rạng NÚI MAI.

Bên trong nhà thờ họ Hồ Sĩ làng Nghĩa An còn có câu: 孝水克含千古月/ 梅山長對億年聲:
Hiếu thủy khắc hàm thiên cổ nguyệt/ Mai sơn trường đối ức niên thanh.

Bài thơ “Cảm đề tam quan” ngợi ca địa cuộc ngôi đình làng An Lợi ghi ở nghi môn:

“Uy nghi hướng vọng Mai sơn đỉnh
Trầm mặc trông ra Hãn thuỷ dòng
Nối gót người xưa bồi phúc địa
Dân AN, vật LỢI thoả tấm lòng”.

Nhà thơ Phan Văn Hy cảm nhận về sông Hãn - non Mai như một bức tranh thuỷ mặc mà tạo hoá đã khéo vẽ nên để mỗi lần thưởng ngoạn, lữ khách càng thêm phần thanh thản, gạt bỏ mọi ưu tư, phiền muộn của cuộc đời:

“Ngọn bút thiên công khéo vẽ vời
Bức tranh tuyệt diệu đãi người chơi
Gió Âu, mưa Á tuy dồn dập
Nguồn Hãn non Mai chẳng đổi dời
Ca hát bên sông dòng nước chảy
Thấp cao trước bãi bóng trăng ngời
Mãi vui chung chén xem phong cảnh
Lững quách hơn thua cái chuyện đời”.
Sông Hãn - Non Mai đã đi vào văn hóa như thế đó!

  • Yến Thọ
(Bài viết đăng trên Tạp chí Cửa Việt số 207, tháng 12 năm 2011)
Nguồn: http://www.tapchicuaviet.com.vn/DuLieu/index.asp?main=ndd&TL=ND_QH&ID=8151

_________________________________________________________________________________

(1) Lương An. Non Mai sông Hãn. Tuyển tập Lương An. Nxb Thuận Hoá, Huế 2004, tr. 552.
(2) Đinh Xuân Vịnh. Sổ tay địa danh Việt Nam. Nxb Lao Động, 1996. tr. 332.
(3) Quốc sử quán triều Nguyễn. Ðại Nam nhất thống chí. T1. Sđd, tr. 134.
(4) Xuân Đức. Một số ý kiến có tính chất đề dẫn tại Hội thảo về địa chỉ khu Mai Lĩnh và đề án xây dựng khu văn hoá - du lịch Mai Lĩnh. Tài liệu đánh máy vi tính (8 trang), 2004, tr. 1.
(5) Hoàng Hữu Phong. Tên những đường phố Đông Hà. Hội người cao tuổi Đông Hà. Bản thảo, 2006, tr. 64.
(6) Tham gia đợt khảo sát lần này có: Lê Đức Thọ - Lê Đình Hùng - Nguyễn Quang Chức - Lê Chí Tài - Nguyễn Văn Hùng - Nguyễn Duy Hùng; với sự cung cấp thông tin của ông Đỗ Văn Dược, 75 tuổi và sự dẫn đường của anh Đỗ Việt Hà, 40 tuổi, người thôn Xuân Lâm.
(7) Tham gia đợt khảo sát này có: Lê Đức Thọ - Cái Thị Vượng - Nguyễn Cường - Hoàng Ngọc Thiệp - Nguyễn Thị Cẩm Lệ; với sự dẫn đường của Nguyễn Văn Quỳnh và Trần Văn Kỷ.
(8) Quốc sử quán triều Nguyễn. Ðại Nam nhất thống chí. T1. Sđd, tr. 135.
(9) Bản đồ được lưu giữ tại họ Nguyễn Đức, phường Đúc Huế.
(10) Xem: - H. De Pirey. Une capital éphémère: Tan So (Một thủ đô phù du Tân Sở). B.A.V.H, 1914, Ðặng Như Tùng dịch, Nxb Thuận Hóa, Huế, 1997, tr. 224 - 234.
- A. Delvaux. Le camp de Tân Sở (Căn cứ Tân Sở). B.A.V.H, 1942, tr. 105 - 114.
(11) Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam nhất thống chí. Sđd, tr. 134.