NHÀ XUẤT BẢN HỘI NHÀ VĂN
2007
_____________________________________
Nhấp chuột vào các mục dưới để mở trang sách.
01 - 02 - 03 - 04 - 05 - 06- 07 - 08 - 09 - 10 - 11 - 12 - 13 - 14 - 15 - 16 - 17 -
18 - 19 - 20.a - 20.b - 20.c - 20.d - 21 - 22 - 23.a - 23.b - 24 - 25 - 26 - 27 - 28 - 29 - 30 - 31 - 32 - 33 - 34 - 35 - 36.a - 36.b - 36.c - 36.d - 36.e - 36.g - 36.h - 36.i - 36.k - 36.l - 36.m - 37 - 38 - 39 - 40 - 41 - 42 - 43 - 44 - 45 - 46 - 47 - 48 - 49 - 50 - 51 - 52 - 53 - 54 - 55 - 56 - 57 - 58 - 59 - 60 - 61 - 62 - 63 - 64 - 65 - 66 - 67
_______________________________________________________________________
Nhấp chuột vào các mục dưới để mở trang sách.
01 - 02 - 03 - 04 - 05 - 06- 07 - 08 - 09 - 10 - 11 - 12 - 13 - 14 - 15 - 16 - 17 -
18 - 19 - 20.a - 20.b - 20.c - 20.d - 21 - 22 - 23.a - 23.b - 24 - 25 - 26 - 27 - 28 - 29 - 30 - 31 - 32 - 33 - 34 - 35 - 36.a - 36.b - 36.c - 36.d - 36.e - 36.g - 36.h - 36.i - 36.k - 36.l - 36.m - 37 - 38 - 39 - 40 - 41 - 42 - 43 - 44 - 45 - 46 - 47 - 48 - 49 - 50 - 51 - 52 - 53 - 54 - 55 - 56 - 57 - 58 - 59 - 60 - 61 - 62 - 63 - 64 - 65 - 66 - 67
_______________________________________________________________________
Lời Tựa
Trong
25 năm nay tôi viết được bốn tập thi thoại:
-
Trường Xuyên Thi Thoại
-
Những Bức Thư Thơ
-
Trong Vườn Hoa Thơ
-
Câu Chuyện Thi Ca
Những
Bức Thư Thơ chưa hoàn kết.
Trong
Vườn Hoa Thơ cũng đã được an bài.
Nên
xin thưa riêng về Câu Chuyện Thi Ca và
Trường Xuyên Thi Thoại.
TRƯỜNG
XUYÊN THI THOẠI viết tại Bình Định, thời Kháng Chiến chống Pháp, trong khoảng
1945-1947. Viết để giữ lòng khỏi bị xáo trộn theo những cuộc xáo trộn khắp chung
quanh.
CÂU
CHUYỆN THI CA viết tại Khánh Hòa, thời Hậu Chiến trong khoảng 1965-1967. Viết
cho Đài Phát Thanh Nha Trang phổ biến mỗi chiều thứ bảy, theo lời yêu cầu ông bạn
Quản Đốc, hầu giúp vui cho những thính giả chuộng văn chương.
Hai tập văn nhắm hai mục đích
khác nhau và viết trong hai hoàn cảnh cũng khác nhau. Hai bên lại cách nhau đến
hai mươi năm. Song tánh chất vẫn không khác, ý thú cũng không khác. Nên để cho
gọn, tôi dồn hai tập lại làm một, và lấy tên, sau khi tu lý chỉnh tề, là HƯƠNG
VƯỜN CŨ
Gọi
là HƯƠNG vì những thơ trích dẫn, đa số là hoa trong Vườn Thơ Việt Nam còn tồn tại
sau bao nhiêu thử thách của thời gian.
Và
gọi là CŨ vì hầu hết số thơ ấy là thơ Đường luật, và các tác giả phần đông là cổ
nhân hoặc thời nhân đã tạ thế.
Tức
là HƯƠNG VƯỜN CŨ nặng về thơ xưa, về thơ của các thi nhân đã thuộc về dĩ vãng.
Những
bài thơ xưa tôi trích lục, lắm bài khác với nhiều sách hiện hành, hoặc vài ba
câu, hoặc năm bảy chữ. Đó là tôi nghe truyền vậy nên chép vậy. Và chép vậy vì
nhận thấy văn thông hơn ý thuận hơn các câu các chữ trong sách. Đôi khi thấy cần
lắm mới biện bạch, còn thì chỉ ghi chú những chỗ dị thù.
Và
ký tải thi nhân, tôi không chú trọng đến thời đại sau trước. Bởi viết thi thoại
chớ không phải thi sử, nên chỉ tùy ngộ tùy nghi. Tôi cũng không đi sâu vào tâm
hồn, bàn rộng về tài nghệ của từng vị. Vì đó là công việc của các nhà phê bình,
các nhà khảo cứu. Tôi tự biết không đủ sức nên không dám cưu mang. Tôi chỉ làm
con bướm lượn vườn hoa. Không bỏ qua một giống hoa nào, một đóa hoa nào đã vào
mắt. Vì:
Hoa
nào hoa lại không hương sắc
Một cánh hoa
tươi một mảnh tình.
Nhưng
chỉ dừng cánh lâu lâu những khi bị mật ngon quyến rũ. Và trải lòng hút mật cũng
chỉ hút lấy vị chớ không hút tận cùng hút triệt để như ong.
Cho
nên những nhận xét, những ý kiến tôi đưa ra không có gì mới lạ, sâu sắc. Tuy
nhiên, nêu lên những gì, viết ra những gì, tôi đều suy kỹ nghĩ chín. Thời chiến
cũng như thời bình, không bao giờ tôi dám khinh suất. Vì sợ người không bằng sợ
lương tâm.
Song
ca dao có câu:
Ngựa
bốn chân leo đèo còn vấp,
Người
đời sao khỏi gặp tai ba.
Gấm
thêu năm bảy thức hoa,
Gấm còn mắc
nhạp, huống nữa là duyên em.
Tôi,
học thức không vững bằng chân ngựa leo đèo, khả năng không bì kịp tay hoa thêu
gấm, thì cũng như người đời, cũng như duyên em, tránh sao cho khỏi vấp khỏi
nhạp.
Hầu
mong chữa sai lấp khuyết, kính xin bạn xa gần mở lượng Nữ Oa gởi cho xin nhiều
nhiều đá.
Tương túc y quan nhi chỉnh bái
Phục kỳ tứ hải dĩ vi xuân. [1]
Viết tại Nha Trang, ngày Phật Đản năm Tân Hợi
(9 tháng 5 năm 1971)
QUÁCH TẤN
______________________________________________________
SÁCH THAM KHẢO
Tùy
Viên Thi Thoại của Viên Mai.
Thi
Pháp nhập môn của Mân Đàm Du.
Cựu
Thi Lược Luận của Lương Xuân Phương.
Văn
Đàm Bảo Giám của Trần Trung Viên.
Thi
Văn Việt Nam và Chinh Phụ Ngâm Bị Khảo của Hoàng Xuân Hãn.
Việt
Nam Cổ Văn Học Sử của Nguyễn Đổng Chi.
Úc
Viên Thi Thoại của Đông Hồ.
Trung
Quốc Văn Học Sử của Nguyễn Hiến Lê.
Giai
Thoại Làng Nho và Chơi Chữ của Lãng Nhân.
Tản
Đà Thi Văn Tập của nhà xuất bản Á Châu.
Hương
Bình Thi Phẩm của Hoàng Trọng Thược.
Thi
Sỹ Nam Trung và Nhà Văn Hiện Đại của Vũ Ngọc Phan.
Thi
Nhân Việt Nam của Hoài Thanh.
Quốc
Văn Đời Tây Sơn của Hoàng Thúc Trâm.
Nữ
Lưu Văn Học Sử của Sở Cuồng.
Nữ
Thi Hào Việt Nam của Phan Xuân Độ.
Hồn
Thơ Đất Việt và Trần Quí Cáp của Lam Giang.
Thơ
Quốc Cấm của Thái Bạch.
Danh
Nhân Bình Định của Bùi Văn Lăng.
Phép
Làm Thơ của Diên Hương.
Văn
học Việt Nam của Phạm Văn Diêu.
Chu
Mạnh Trinh của Bùi Giáng.
Việt
Nam Văn Học Sử Yếu của Dương Quảng Hàm.
Việt
Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim.
Đại
Việt Sử Ký Toàn Thư.
Đại
Nam Nhất Thống Chí.
Tây
Hồ Chí…
PHỤ LỤC
BÀI TỰA TẬP TRƯỜNG XUYÊN THI THOẠI
(Tập Trường
Xuyên Thi Thoại sửa chữa và hoàn tất khoảng đầu năm Đinh Hợi (1947). Tập Hương
Vườn Cũ cũng sửa chữa và hoàn tất khoảng đầu năm Tân Hợi (1971). Và hai bài tựa
cũng đều viết vaò ngày lễ Phật Đản. Một sự trùng hợp lý thú. Trường Xuyên Thi
Thoại đã nhập vào Hương Vườn Cũ, nên chép lại bài tựa để làm duyên).
-o0o-
Đương
khi nước nhà lắm việc, kẻ làm trai ai cũng ra góp sức góp công. Riêng tôi lực yếu
tài ương, đành lui vào thôn xa nương ngày tháng.
Vườn
dâu xanh lá, ruột con tằm những mong kéo dài mối tơ. Song ngoài trời hết mống
liền giông, chín khúc khó vương thành kén.
Chim
kêu hoa rụng, lắm lúc thật là buồn! Nước biếc non xanh, ngắm lâu cũng thành
chán! Bắt chước Trần Hy Di ngủ trăm ngày một giấc, “tỉnh ra hỏi đã thái bình
chưa”. Nhưng mắt luyện chưa quen, nhắm lâu cay khó chịu. Lại học Túy Ngâm Tiên
Sinh, ngâm say say ngâm, mờ mờ mịt mịt, để cho “mộng thân thế, vân phú quí, mộ
tịch thiên địa, thuấn tức bách niên”. Nhưng rượu vốn không hay, uống nhiều đắng
khó chịu.
Tìm
không còn thú chi hơn nữa, bèn đem câu chuyện Thơ ra viết chơi. Riêng hềm sách
thiếu bạn thiếu, nương vào đâu cho khỏi lỗi Bắc Nam?! Nhớ câu “mặt giấy bút
sa…”, đã viết lại thôi viết. Nhưng rồi nghĩ lại:
-
Chuyện thế gian chắc đâu là phải là trái. Công đây: Tội đó. Cần chi. Huống hồ
chỉ để mà chơi thì phải đấy cũng không phải là công, mà trái đấy cũng không ai
bắt tội.
Thế
là: Tơ vò tìm thấy mối, đường xa gặp được xe. Lòng trút e dè, bút nhẹ cân nhắc.
Hứng khi nào viết khi nấy, không hạn không kỳ. Thích thế nào, viết thế ấy, bỏ
phép bỏ tắc. Đọc một mình, ngâm một chắc, sổ sổ khuyên khuyên. Vỗ đôi vế nhịp
đôi đùi, hỉ hỉ hả hả:
Vị tất ngộ nhân thiên tải hạ
Tri
âm ai nhắn nhe cùng
Đèn
xanh một ngọn trống thùng năm canh
Viết
tại cố hương Trường Định ngày Phật Đản năm Đinh Hợi (1947)
Quách
Tấn