Hương Vườn Cũ 23.a



Vịnh Kiều vì “vốn cũng nòi tình, thương người đồng điệu”, nghĩa là phần lớn vì Kiều, thì chỉ có CHU CÁN THẦN là người nổi danh trong làng bút  mực.

Chu Cán Thần tức là Chu Mạnh Trinh. Cán Thần là Tự, và hiệu là Trúc Vân.
Văn tài lỗi lạc.
19 tuổi đậu tú tài, 25 tuổi đậu giải nguyên, 31 tuổi đậu Tiến sỹ.
Làm quan đến Án Sát Sứ. Nhưng sống trong cảnh nước nhà gặp biến, triều đình Huế bất lực trước sức xâm lăng của người Pháp, sỹ phu cũng không phương cứu nạn, đành bóp bụng khoanh tay, Cán Thần bèn cáo quan về vui cùng non xanh nước biếc, chén rượu câu thơ để khuây khỏa ngày tháng. Ông về được hai năm thì mất. Mất năm Ất Tỵ (1905), thọ được 44 tuổi.
Chu Mạnh Trinh còn để lại:
- Một bài hát nói “Hương Sơn Phong Cảnh”
- Một bài ca “Hương Sơn Nhật Trình”.
- Một tập vịnh Kiều nhan là “Thanh Tâm Tài Nhân Thi Tập”.

Riêng nói về tập thơ “Thanh Tâm Tài Nhân”.
Trước hết xin nói rõ nguyên nhân sáng tác:
Nguyên sau khi từ quan về tỉnh nhà, Chu Mạnh Trinh gặp quan Tuần Vũ Hưng Yên là LÊ HOAN. Đôi bên kết bạn văn chương, lập một Thi Đàn tại tỉnh lỵ, cùng các danh sỹ đương thời xướng họa làm vui
Một hôm Thi Đàn mở cuộc thi Thơ, lấy Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân làm đề mục.
Kim Vân Kiều truyện gồm 20 hồi. Người dự thí phải theo từng hồi mà đề vịnh. Thể thơ là thể Đường luật, làm bằng chữ Hán, hay chữ Nôm, hoặc lẫn cả hai thứ. Ngoài 20 bài vịnh từng hồi một, còn phải có một bài tổng vịnh bao quát ý nghĩa của quyển truyện, và một bài Tựa bằng Hán văn.
Chủ trì cuộc thi là hai danh sỹ lão thành: NGUYỄN KHUYẾN và DƯƠNG LÂM.
Dự thí toàn là những danh sỹ đương thời: Chu Thấp Hy, Nguyễn Kỳ Nam, Nguyễn Tấn Cảnh, Nguyễn Chí Đạo, Đặng Chức Cường, Phan Mạnh Danh, Phan Thạch Sơ… và Chu Mạnh Trinh.
Kết quả cuộc thi, thì Chu Thấp Hy chiếm giải nhất về bên Hán văn và Chu Mạnh Trinh giật giải quán quân về bên Việt Ngữ.

Chung quanh cuộc thi Vịnh Kiều này có xảy ra một câu chuyện đã trở thành một giai thoại văn chương. Rằng:
Khi chấm quyển thi của Chu Mạnh Trinh, đến bài “Kiều mắc lận Sở Khanh”:

Những nghĩ chim lồng chắp cánh bay,
Họa khi vận rủi có hồi may.
Làng Nho người cũng coi ra vẻ,
Bợm xỏ ai ngờ mắc phải tay.
Hai chữ tin hồng trao gác nguyệt,
Một roi vó ký tếch đường mây.
Mẫu đơn vùi dập cơn mưa gió,
Cái nợ yêu hoa khéo đọa đày.
Nguyễn Khuyến phê:
Rằng hay thì thật là hay,
Nho mà đối xỏ lòng này không ưng.

Mặc dù được chấm giải nhất, họ Chu vẫn không thỏa mãn vì lời phê.
Cách đó ít lâu, Chu Mạnh Trinh đến thăm Nguyễn Khuyến và mang tặng một chậu hoa trà my.
Hoa trà my là một thứ hoa hữu sắc vô hương.
Lúc bấy giờ Nguyễn Khuyến tuổi đã cao, lại bị bệnh nên mắt đã lòa.
Đem tặng người lòa mà tặng hoa chỉ có sắc, họ Chu muốn trả thù lời phê trước kia và ý bảo rằng cụ Nguyễn “hữu nhãn vô châu” nên mới phê như thế. Hiểu rõ thâm ý của họ Chu, cụ Nguyễn liền tặng lại một bài thơ rằng:

Khách đến cho ta một chậu trà,
Mắt mù không biện được màu hoa!
Da mồi tóc hạc ta già nhỉ!
Áo thụng khăn thâm bác đấy a?
Mưa nhỏ những e phường xỏ lá,
Gió to lại ngại lũ dơi già!
Lâu nay ta chỉ xem bằng mũi:
Đếch thấy hơi hương một tiếng khà!

Thật là “ăn miếng trả miếng”. Bốn câu trước thật mỉa mai. Bốn câu sau, nhất là chuyển kết, thật là đau độc! Câu kết mượn hoa trà “không hương” để bảo rằng họ Chu “thiếu đức”.
Một bên thì bảo “hữu nhãn vô châu”.
Một bên thì chê “hữu tài vô hạnh”.
Bên “tám lạng, bên nửa cân”. Cho nên xí xóa vậy.

***
Chúng ta hãy trở lại cùng tập thơ Vịnh Kiều tức Thanh Tâm Tài Nhân thi tập của Chu Mạnh Trinh.
Tập này đã được giáo sư BÙI GIÁNG bình luận rất chu đáo trong tập “Giảng luận về Chu Mạnh Trinh” do nhà Tân Việt Saigon xuất bản năm 1959.
Bùi Giáng nhiệt liệt ca tụng tập thơ:
- “Nhiều danh sỹ cho rằng thi tập vịnh này không thẹn với văn chương của Nguyễn Du. Lần giở hai cảo thơm song song dưới đèn để so sánh, có lúc ta thấy lời thơ Chu hay gần bằng lời thơ Nguyễn, có lúc hay bằng… rất bằng… hay rất thật bằng…, rồi bất ngờ đột ngột hay hơn.”

Sau Nguyễn Du chưa thấy ai thương Thúy Kiều bằng Chu Mạnh Trinh. Và từ Thanh Tâm Tài Nhân Thi tập ra đời chưa ai thương Chu Mạnh Trinh bằng Bùi Giáng. Mà có thương mới nói được trọn những điểm đáng yêu đáng thương đáng quí đáng trọng của con người đã rút ruột thêu văn. Cho nên các bạn muốn biết rõ tài nghệ và tâm hồn của họ Chu, muốn thấy rõ giá trị của Thanh Tâm Tài Nhân thi tập thì nên đọc “Chu Mạnh Trinh” của Bùi Giáng. Ở đây để mua vui cùng quí bạn trong chốc lát, chỉ xin trích một đôi bài thơ của họ Chu, và thêm đôi lời bình luận nho nhỏ cho thêm nhộn thêm vui.

Văn chương trong Thanh Tâm Tài Nhân thi tập rất thanh lệ, nghĩa là đẹp một cách thanh nhã, như một giai nhân không vàng trau ngọc chuốt, gấm trổ thêm hoa, mà chỉ thoa sơ một tí phấn hồng, khoác sơ chiếc áo lụa trắng, đủ làm cho khách tài tử đắm mắt xiêu lòng. Nói một cách vắn tắt là Thơ Vịnh Kiều của Chu Mạnh Trinh đẹp đã gần đến mức thiên nhiên. Đây thử đọc bài:

KIỀU ĐI THANH MINH
Màu xuân ai khéo vẽ nên tranh
Nô nức đua nhau hội Đạp thanh.
Phận bạc ngậm ngùi người chín suối,
Duyên may run rủi khách ba sinh.
Dưới hoa nép mặt gương lồng bóng,
Ngàn liễu rung cương sóng gợn tình.
Man mác vì đâu thêm ngán nỗi!
Đường về chiêng đã gác chênh chênh.

Lời thơ dung dị mà thật đẹp. Nhất là câu:
Dưới hoa nép mặt gương lồng bóng
Ngàn liễu rung cương sóng gợn tình.
Thật là tuyệt diệu từ. Quả như lời Bùi Giáng đã nói: “Lời ít mà ý nhiều. Vừa nhắc vừa gợi. Vừa gợi vừa bàn”. Thật là hàm súc, thật là điêu luyện, nhưng vẫn giữ được dáng khinh khoái tự nhiên. Tình nửa kín nửa hở, vừa đằm thắm vừa chứa chan… Toàn bài thơ là mặt mũi tay chân của giai nhân, mà hai câu “Dưới hoa… Ngàn liễu” là cặp mắt huyền lóng lánh.
Chúng ta hãy đọc thêm một bài nữa, bài:

HỘI NGỘ VƯỜN THÚY
Hết nghĩ gần thôi lại nghĩ xa,
Hiu hiu án sách ngọn đèn tà…
Gương loan phảng phất hồn cung quế,
Giấc bướm mơ màng khách trước sa.
Mười vận sầu tuôn đôi giọt ngọc,
Trăm năm duyên bén một cành thoa.
Mái Tây bỏ lúc chờ trăng dựng,
Rày đã vườn xuân tỏ mặt hoa.

Văn chương toàn bích. Câu ba, bốn và năm, nhất là câu năm, hay cực điểm! Lời thơ một đúc mà nên, không tìm thấy dấu tay người sắp đặt. Và tứ thơ tạo nên một bầu không khí nửa hư nửa thực, phảng phất, mơ màng…
Nếu “danh sỹ giai nhân không cùng một kiếp hoa nghiêm nặng nợ”, nếu không phải nòi tình thương người đồng điệu, thì dù tài ba cho mấy cũng không thể rút ruột dệt nên lời nồng nàn âu yếm như kia.
Những bài khác đại khái cũng như thế. Thì đây đọc thêm một bài nữa:

KIỀU BÁN MÌNH CHUỘC CHA
Thử đem tình hiếu bắt đồng cân,
Trăm thảm nghìn sầu góp một thân.
Bèo giạt mây trôi đành với phận,
Đào tơ liễu yếu ngán cho xuân.
Giọt sương trĩu nặng hoa lìa gốc,
Vạ gió gây nên nước đến chân.
Nông nổi hợp tan lời gắn bó,
Trời già âu cũng mở lòng nhân.

Tình của họ Chu đối với Thúy Kiều sâu đậm như thế, văn của Thanh Tâm Tài Nhân thi tập tươi đẹp như thế, nên bảo “Chu Mạnh Trinh không thẹn với Nguyễn Du nếu đem hai cảo văn chương ra so sánh” thật không chút ngoa vậy.