Vịnh
Kiều vì “vốn cũng nòi tình, thương người đồng điệu”, nghĩa là phần lớn vì Kiều,
thì chỉ có CHU CÁN THẦN là người nổi danh trong làng bút mực.
|
Chu
Cán Thần tức là Chu Mạnh Trinh. Cán Thần là Tự, và hiệu là Trúc Vân.
Văn
tài lỗi lạc.
19
tuổi đậu tú tài, 25 tuổi đậu giải nguyên, 31 tuổi đậu Tiến sỹ.
Làm
quan đến Án Sát Sứ. Nhưng sống trong cảnh nước nhà gặp biến, triều đình Huế bất
lực trước sức xâm lăng của người Pháp, sỹ phu cũng không phương cứu nạn, đành
bóp bụng khoanh tay, Cán Thần bèn cáo quan về vui cùng non xanh nước biếc, chén
rượu câu thơ để khuây khỏa ngày tháng. Ông về được hai năm thì mất. Mất năm Ất
Tỵ (1905), thọ được 44 tuổi.
Chu
Mạnh Trinh còn để lại:
-
Một bài hát nói “Hương Sơn Phong Cảnh”
-
Một bài ca “Hương Sơn Nhật Trình”.
-
Một tập vịnh Kiều nhan là “Thanh Tâm Tài Nhân Thi Tập”.
Riêng
nói về tập thơ “Thanh Tâm Tài Nhân”.
Trước
hết xin nói rõ nguyên nhân sáng tác:
Nguyên
sau khi từ quan về tỉnh nhà, Chu Mạnh Trinh gặp quan Tuần Vũ Hưng Yên là LÊ
HOAN. Đôi bên kết bạn văn chương, lập một Thi Đàn tại tỉnh lỵ, cùng các danh sỹ
đương thời xướng họa làm vui
Một
hôm Thi Đàn mở cuộc thi Thơ, lấy Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân làm
đề mục.
Kim
Vân Kiều truyện gồm 20 hồi. Người dự thí phải theo từng hồi mà đề vịnh. Thể thơ
là thể Đường luật, làm bằng chữ Hán, hay chữ Nôm, hoặc lẫn cả hai thứ. Ngoài 20
bài vịnh từng hồi một, còn phải có một bài tổng vịnh bao quát ý nghĩa của quyển
truyện, và một bài Tựa bằng Hán văn.
Chủ
trì cuộc thi là hai danh sỹ lão thành: NGUYỄN KHUYẾN và DƯƠNG LÂM.
Dự
thí toàn là những danh sỹ đương thời: Chu Thấp Hy, Nguyễn Kỳ Nam, Nguyễn Tấn Cảnh,
Nguyễn Chí Đạo, Đặng Chức Cường, Phan Mạnh Danh, Phan Thạch Sơ… và Chu Mạnh
Trinh.
Kết
quả cuộc thi, thì Chu Thấp Hy chiếm giải nhất về bên Hán văn và Chu Mạnh Trinh
giật giải quán quân về bên Việt Ngữ.
Chung
quanh cuộc thi Vịnh Kiều này có xảy ra một câu chuyện đã trở thành một giai thoại
văn chương. Rằng:
Khi
chấm quyển thi của Chu Mạnh Trinh, đến bài “Kiều mắc lận Sở Khanh”:
Những
nghĩ chim lồng chắp cánh bay,
Họa
khi vận rủi có hồi may.
Làng
Nho người cũng coi ra vẻ,
Bợm
xỏ ai ngờ mắc phải tay.
Hai
chữ tin hồng trao gác nguyệt,
Một
roi vó ký tếch đường mây.
Mẫu
đơn vùi dập cơn mưa gió,
Cái
nợ yêu hoa khéo đọa đày.
Nguyễn
Khuyến phê:
Rằng
hay thì thật là hay,
Nho
mà đối xỏ lòng này không ưng.
Mặc
dù được chấm giải nhất, họ Chu vẫn không thỏa mãn vì lời phê.
Cách
đó ít lâu, Chu Mạnh Trinh đến thăm Nguyễn Khuyến và mang tặng một chậu hoa trà
my.
Hoa
trà my là một thứ hoa hữu sắc vô hương.
Lúc
bấy giờ Nguyễn Khuyến tuổi đã cao, lại bị bệnh nên mắt đã lòa.
Đem
tặng người lòa mà tặng hoa chỉ có sắc, họ Chu muốn trả thù lời phê trước kia và
ý bảo rằng cụ Nguyễn “hữu nhãn vô châu” nên mới phê như thế. Hiểu rõ thâm ý của
họ Chu, cụ Nguyễn liền tặng lại một bài thơ rằng:
Khách
đến cho ta một chậu trà,
Mắt
mù không biện được màu hoa!
Da
mồi tóc hạc ta già nhỉ!
Áo
thụng khăn thâm bác đấy a?
Mưa
nhỏ những e phường xỏ lá,
Gió
to lại ngại lũ dơi già!
Lâu
nay ta chỉ xem bằng mũi:
Đếch
thấy hơi hương một tiếng khà!
Thật
là “ăn miếng trả miếng”. Bốn câu trước thật mỉa mai. Bốn câu sau, nhất là chuyển
kết, thật là đau độc! Câu kết mượn hoa trà “không hương” để bảo rằng họ Chu
“thiếu đức”.
Một
bên thì bảo “hữu nhãn vô châu”.
Một
bên thì chê “hữu tài vô hạnh”.
Bên
“tám lạng, bên nửa cân”. Cho nên xí xóa vậy.
***
Chúng
ta hãy trở lại cùng tập thơ Vịnh Kiều tức Thanh Tâm Tài Nhân thi tập của Chu Mạnh
Trinh.
Tập
này đã được giáo sư BÙI GIÁNG bình luận rất chu đáo trong tập “Giảng luận về
Chu Mạnh Trinh” do nhà Tân Việt Saigon xuất bản năm 1959.
Bùi
Giáng nhiệt liệt ca tụng tập thơ:
-
“Nhiều danh sỹ cho rằng thi tập vịnh này không thẹn với văn chương của Nguyễn
Du. Lần giở hai cảo thơm song song dưới đèn để so sánh, có lúc ta thấy lời thơ
Chu hay gần bằng lời thơ Nguyễn, có lúc hay bằng… rất bằng… hay rất thật bằng…,
rồi bất ngờ đột ngột hay hơn.”
Sau
Nguyễn Du chưa thấy ai thương Thúy Kiều bằng Chu Mạnh Trinh. Và từ Thanh Tâm
Tài Nhân Thi tập ra đời chưa ai thương Chu Mạnh Trinh bằng Bùi Giáng. Mà có
thương mới nói được trọn những điểm đáng yêu đáng thương đáng quí đáng trọng của
con người đã rút ruột thêu văn. Cho nên các bạn muốn biết rõ tài nghệ và tâm hồn
của họ Chu, muốn thấy rõ giá trị của Thanh Tâm Tài Nhân thi tập thì nên đọc
“Chu Mạnh Trinh” của Bùi Giáng. Ở đây để mua vui cùng quí bạn trong chốc lát,
chỉ xin trích một đôi bài thơ của họ Chu, và thêm đôi lời bình luận nho nhỏ cho
thêm nhộn thêm vui.
Văn
chương trong Thanh Tâm Tài Nhân thi tập rất thanh lệ, nghĩa là đẹp một cách
thanh nhã, như một giai nhân không vàng trau ngọc chuốt, gấm trổ thêm hoa, mà
chỉ thoa sơ một tí phấn hồng, khoác sơ chiếc áo lụa trắng, đủ làm cho khách tài
tử đắm mắt xiêu lòng. Nói một cách vắn tắt là Thơ Vịnh Kiều của Chu Mạnh Trinh
đẹp đã gần đến mức thiên nhiên. Đây thử đọc bài:
KIỀU
ĐI THANH MINH
Màu
xuân ai khéo vẽ nên tranh
Nô
nức đua nhau hội Đạp thanh.
Phận
bạc ngậm ngùi người chín suối,
Duyên
may run rủi khách ba sinh.
Dưới
hoa nép mặt gương lồng bóng,
Ngàn
liễu rung cương sóng gợn tình.
Man
mác vì đâu thêm ngán nỗi!
Đường
về chiêng đã gác chênh chênh.
Lời
thơ dung dị mà thật đẹp. Nhất là câu:
Dưới
hoa nép mặt gương lồng bóng
Ngàn
liễu rung cương sóng gợn tình.
Thật
là tuyệt diệu từ. Quả như lời Bùi Giáng đã nói: “Lời ít mà ý nhiều. Vừa nhắc
vừa gợi. Vừa gợi vừa bàn”. Thật là hàm súc, thật là điêu luyện, nhưng vẫn
giữ được dáng khinh khoái tự nhiên. Tình nửa kín nửa hở, vừa đằm thắm vừa chứa
chan… Toàn bài thơ là mặt mũi tay chân của giai nhân, mà hai câu “Dưới hoa…
Ngàn liễu” là cặp mắt huyền lóng lánh.
Chúng
ta hãy đọc thêm một bài nữa, bài:
HỘI
NGỘ VƯỜN THÚY
Hết
nghĩ gần thôi lại nghĩ xa,
Hiu
hiu án sách ngọn đèn tà…
Gương
loan phảng phất hồn cung quế,
Giấc
bướm mơ màng khách trước sa.
Mười
vận sầu tuôn đôi giọt ngọc,
Trăm
năm duyên bén một cành thoa.
Mái
Tây bỏ lúc chờ trăng dựng,
Rày
đã vườn xuân tỏ mặt hoa.
Văn
chương toàn bích. Câu ba, bốn và năm, nhất là câu năm, hay cực điểm! Lời thơ một
đúc mà nên, không tìm thấy dấu tay người sắp đặt. Và tứ thơ tạo nên một bầu
không khí nửa hư nửa thực, phảng phất, mơ màng…
Nếu
“danh sỹ giai nhân không cùng một kiếp hoa nghiêm nặng nợ”, nếu không phải nòi
tình thương người đồng điệu, thì dù tài ba cho mấy cũng không thể rút ruột dệt
nên lời nồng nàn âu yếm như kia.
Những
bài khác đại khái cũng như thế. Thì đây đọc thêm một bài nữa:
KIỀU
BÁN MÌNH CHUỘC CHA
Thử
đem tình hiếu bắt đồng cân,
Trăm
thảm nghìn sầu góp một thân.
Bèo
giạt mây trôi đành với phận,
Đào
tơ liễu yếu ngán cho xuân.
Giọt
sương trĩu nặng hoa lìa gốc,
Vạ
gió gây nên nước đến chân.
Nông
nổi hợp tan lời gắn bó,
Trời
già âu cũng mở lòng nhân.
Tình
của họ Chu đối với Thúy Kiều sâu đậm như thế, văn của Thanh Tâm Tài Nhân thi tập
tươi đẹp như thế, nên bảo “Chu Mạnh Trinh không thẹn với Nguyễn Du nếu đem hai
cảo văn chương ra so sánh” thật không chút ngoa vậy.