QUỲNH GIAO

TẠP GHI @ QUỲNH GIAO
&
TRUYỆN NGẮN QUỲNH GIAO


Ca sĩ Quỳnh Giao (1946-2014)

Tên thật: Công Tằng Tôn Nữ Đoan Trang, sinh ngày 08-11-1946 tại làng Vỹ Dạ, Huế.
Từ bé, tiếng hát Quỳnh Giao đã xuất hiện trên đài phát thanh Sài Gòn, trong những chương trình Tuổi Xanh của Ban Nhi Đồng Kiều Hạnh. Tốt nghiệp thủ khoa lớp dương cầm và được bà Robin của Trung tâm văn Hóa Pháp, Alliance Française, hướng dẫn về thanh nhạc và opera.

Năm 15 tuổi (1961), trở thành ca sĩ chuyên nghiệp với nghệ danh Quỳnh Giao và trở thành một ca sĩ chủ lực của các đài phát thanh Sài Gòn, Quân đội và Tiếng Nói Tự Do trước năm 1975.

Năm 1990, bà định cư tại California (USA) cùng chồng là kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa cho đến khi qua đời vào ngày 23-7-2014 tại Fountain Valley, hưởng thọ 68 tuổi.

-o0o-


TẠP GHI @ QUỲNH GIAO


Có 10 PHẦN và mỗi PHẦN sẽ chứa 12 bài viết của tác giả Quỳnh Giao.
Mời quý vị nhấp chuột (click) vào link (nền màu xanh lục, green) của từng PHẦN để mở ra đọc.

MỤC LỤC



01. Những Tiếng Xưa.
02. “Mây Lìa Ngàn” Của Đinh Hùng.
03. Whitney Houston và Cây Cầu Vồng.
04. Ai Giết Jacko?
05. The King và Tội Giết Vua.
06. Hồn Cầm Phong Sương.
07. Xa Quê Hương. . . Ðã Bao Lần.
08. New Orleans Nức Nở.
09. Treo Trên Nốt Nhạc.
10. Lột Đồng Hồ.
11. Tạ Ơn Đời.
12. Nguyễn Xuân Hoàng, Người Rong Ca Buồn.


13 Truyện Ngắn Ukraine
14 Kiếp Tằm và Con Ngựa
15. Thu của Đoàn Chuẩn
16. Cô Gái Xâm Hình Rồng
17. Nhậu và Nhẹt
18. Nổi Trôi mà Không Chìm
19. Tùy bút mà Tạp ghi...
20. Bóng Chiều Xưa
21. Mưa Rơi…
22. Hai Cõi Thiên Thai
23. Có Hai Chàng Trương
24. Thời Gian Ở Trên Tay....


25. "Charlot", Trẻ, Già và Mãi Mãi
26. Chàng Luke Số Đỏ
27. Hình và Ảnh Thời Ấu Thơ
28. Một Bà Bạn
30. Cung Tiến Không Lời
29. Tiếng Kinh Cầu Trong Nhạc Chopin
30. Cung Tiến Không Lời
31. Tiếng Hát Thái Hiền
32. Nhạc Đọng Trong Lời
33. Nghe Nhạc Như Tìm Về Nhà
34. Dương Thiệu Tước và Ngọc Lan
35. WTC và Barenboim
36. Dolly Parton – Sexy và Thông Minh 


37. Rimsky-Korsakov: Thanh âm của Màu sắc.
38. Yêu Đến Dại Khờ.
39. Steinway, Báu Vật Dâng Trời.
40. Trở Về Một Khúc Bi Ca.
41. Giải Mã Âm Nhạc.
42. Quỳnh Giao viết về Nguyên Sa
43. Tạm Biệt Tiếng Hát Duy Trác.
44 . Hoài Bắc Phạm Đình Chương, Một Thời Đã Qua...
45. Một Bụng Đầy Sao.
46. Ave Maria của Gounod.
47. Đi Như Ngày Tháng, Xin Thong Thả...
48. Giới thiệu Chương Trình (Quỳnh Giao làm MC!) 


49. Độc Thoại
50. Nghe Hòa Nhạc
51. Hội Hoa Ðăng
52. Xuân Ca Ngày Cũ: Từ La Hối đến Nguyễn Hiền và Phạm Đình Chương
53. Ngày Xuân, Nghe Lại "Xuân Hành" Của Phạm Duy
54. Văn Cao - Tiếng Đàn Chơi Vơi
55. Hương Xuân và Giai Nhân
56. Nghe Những Xót Xa Từ Ðồng Cỏ của Nguyễn Ðình Toàn
57. Thương Tiếc Lê Thương
58. Hoàng Hạc Lâu và Vũ Hoàng Chương - Cung Tiến
59. Hoàng Hoa
60. Nyotaimori


61. Vũ Thành Nhặt Cánh Sao Rơi
62. Cô Đơn Trên Đỉnh
63. Maria Callas, La Divina
64. Xin Một Tràng Pháo Tay...
65. Ðể Lại Con Tim…
66. Nghe Mãi Còn Thèm
67. Màu Tím Bên Thềm Năm Mới
68. Tiêu Tương Dạ Vũ… Thành
69. Từ Tiền chiến… tới Thính phòng
70. Ma lực Boléro
71. Vũ Khúc Ma Quái, khi Đinh Hùng nhớ Nguyễn Xuân Khoát!
72. Chỉ Ba Nốt Nhạc


73. O Cangaceiro
74. Marilyn Diễm Tuyệt
75 John Hurt và Khổ Ách
76 Bí Danh, Nghệ Danh và Biệt Hiệu
77. Charles Aznavour – Lời Từ Biệt Vượt Thời Gian
78. Nhớ về Văn Phụng? Hát khúc Ô! Mê Ly!
79. Nữ hoàng Schwartzkoft – Sống Cho Nghệ Thuật
80. Tan Dun - Ðệ Nhất
81. Nghe Strauss Trên Dòng Danube
82. Judy Collins – Từ thảm họa đến bác ái
83. Yehudi Menuhin – Tâm trụ vào nhạc
84. Gilbert Bécaud – Et Maintenant


85. Cách Mạng Trong Lời Ca
86. Phạm Duy và Thái Thanh
87. Xuân Tha Hương
88. Phạm Ðình Chương, Quê Hương Là Người Ðó
89. Thất thập vẫn còn Xuân
90. "Fever", Lên Cơn Sốt với Peggy Lee
91. Bà Mập Hót Như Chim
92. Mãnh lực Văn chương
93. Andrew Lloyd Webber – Tuổi trẻ tài cao
94. Mê Giầy
95. Pavarotti Yên Nghỉ
96. Claude Debussy – Ðông phương và Hiện đại

97. Thật Giả Trước Sau
98. Bộ Đồ Vía
99. Phục Vụ Nữ Hoàng - Nhưng Hoang Vô Hậu
100. Khúc Bi Ca của Billie Holiday
101. Dạ Tiệc Một Mình
102. Lâm Tuyền và Giấc Mơ Sông Hồ
103. Mài Dao Cho Sắc
104. Vượt Cõi Trùng Dương, Beyond La Mer
105. Hồn Cầm Thân Mộc
106. Hoà Âm Chắp Cánh Cho Nhạc
107. Tâm Sự Cái Quần... Din
108. Những Măng Và Tre


109. Nàng Thủy Tiên
110. Ngã Lãng Du Thời....
111. Ngợi Ca Phụ Nữ
112. Từ Hoàng Trọng Hồ Đình Phương, Đi Về Kỷ Niệm
113 Nguyễn Ðình Toàn - Dẫn Em Vào Nhạc
114. Những Tiếng Gọi Lên Đường
115. Vang Vang Trời Vào Xuân
116. Memories của Lê Văn Khoa
117. Sérénade sans Espoir
118. Aretha Franklin – Nữ Hoàng Soul
119. Kim Tước, giọng ca quý phái.
120. Đêm Cuối Cùng
121. Đốt Lò Hương Cũ...
122. Phạm Đình Chương.
_______________________________________________



Khúc hát càng cao càng ít người thưởng ngoạn

  • Luân Tế 

Nghệ sĩ Quỳnh Giao
Khi Quỳnh Giao mời tôi đến trám chỗ vài phút giữa hai bản nhạc trong chương trình ra mắt cuốn Tạp Ghi thì tôi hỏi Quỳnh Giao là tôi nên ứng khẩu hay là viết lách đàng hoàng. Quỳnh Giao muốn tôi ứng khẩu.

Nhưng khi nhận được cuốn Tạp Ghi, bìa mầu tím rất nhã, cầm trong tay, đọc lại một lần nữa những bài đã đọc, thì tôi cảm thấy có thể những lời nói ngẫu hứng của mình không xứng đáng với những gì  Quỳnh Giao viết nên tôi ngồi xuống viết một bài ngắn dùng làm sườn cho cuộc nói chuyện hôm nay.

Nghệ sĩ Việt Nam thường chỉ làm “đơn nghiệp”, tức là chỉ có một nghề, hay chỉ có một tài. 
Nghệ sĩ Cải Lương thỉnh thoảng sang hát vài bài tân nhạc. Ca sĩ có tiếng và đẹp trai hay đẹp gái được mời đóng phim. Nhưng chuyện đổi nghề này vẫn thuộc vào cái gọi là nghệ thuật trình diễn. Không thấy nhà thơ nào đi đóng kịch hay nhà văn nào đi hát, kể cả hát Karaoke. 

Vì không sinh hoạt trong cộng đồng, có thể tôi không biết rõ, nhưng có lẽ chỉ có vài người trong giới nghệ sĩ trình diễn có khả năng viết lách. Một trong những người đó là ca sĩ Quỳnh Giao.
Người Việt ta có một câu rất đểu là, “văn mình, vợ người”. Văn mình thì guarantee phải hay hơn văn người khác và vợ người khác thì of course, naturellement là đẹp hơn vợ mình.

Tôi cũng có viết được dăm ba cuốn sách, nhưng lúc ngồi ở vườn sau, đọc đến hết trang 415 trong cuốn Tạp Ghi của Quỳnh Giao thì tôi ngửng lên nhìn trời, ngẫm nghĩ, ngậm ngùi cho thân phận viết lách của mình một lúc rồi nhìn vào trong nhà, thấy một bóng dáng thân thuộc, cảm thấy câu trên là sai, phải sửa lại thành : “Văn người - Vợ mình”. Cuốn sách của Quỳnh Giao chứng minh cho vế thứ nhất. Kim Thanh, vợ tôi có mặt hôm nay, là minh chứng cho vế thứ hai.

Tôi biết, hay nói đúng là nghe, Quỳnh Giao hát từ hồi còn trẻ. Sau này đi vào giới truyền thanh, văn nghệ nên có dịp gặp Quỳnh Giao trên đài phát thanh, đài truyền hình. Sang Mỹ thì cũng chỉ gặp lại nhau vài lần vì tôi không giao thiệp rộng, và vì ở xa nên không có cơ hội tham dự những sinh hoạt cộng đồng, văn hóa, văn nghệ. Khi bạn bè chuyển cho tôi đọc những bài tạp ghi của Quỳnh Giao viết trên NGƯỜI VIỆT Online, tôi thấy hay quá, có viết thư khen Quỳnh Giao và gửi cho Quỳnh Giao những bài tôi viết. Thành ra chúng tôi đã quen nhau hơn 40 năm, không biết nhà nhau, không biết cả số điện thoại, nhưng lại biết về nhau nhiều hơn qua Internet và email. 

Trong cuốn Tạp Ghi gồm 67 bài này, mỗi chữ, mỗi dòng được chọn lựa, đặt xuống, kéo qua, dằng lại một cách cẩn trọng. Những câu, những đoạn mang đầy ý nghĩa, mới, lạ, hơi cao một chút nhưng lôi cuốn người đọc vào những chỗ có lẽ họ không muốn tới nhưng không cưỡng lại được. Quý vị cứ tin tôi đi. Ở vào cái tuổi của tôi, tôi không dễ bị lôi cuốn đâu.

Quỳnh Giao viết phần lớn là về nhạc nhưng đây không phải là những bài phê bình âm nhạc mà là những cảm nghĩ chân thành của một người yêu nhạc, có một kiến thức rất rộng và đa dạng về âm nhạc, và sống với âm nhạc suốt cuộc đời.

Quỳnh Giao viết về những bài hát, những giọng ca cả Việt Nam lẫn ngoại quốc, về những con người đã để lại, không những trong Quỳnh Giao mà thôi mà còn ở hầu hết trong chúng ta, một gia sản văn hóa vô giá. Tôi có cái may mắn là đã được quen, được gặp, được nói chuyện với, được biết, được nghe, được xem hầu hết những nhân vật Quỳnh Giao nói tới trong cuốn Tạp Ghi. Và mỗi dòng Quỳnh Giao viết về từng người, với tôi, là một kỷ niệm.

Từ mái tóc rất nghệ sĩ của Vũ Thành, đến Lê Thương đứng trong lớp vẽ 5 dòng kẻ thẳng tắp trên bảng đen, đến sự nghiêm nghị của Hoàng Trọng, đến tiếng hát một thời ngắn ngủi của Thanh Vũ, đến cái bất cần đời của Phạm Duy, đến tiếng đàn réo rắt của Đan Thọ, đến Phạm Đình Chương một tay rượu, một tay thuốc lá lừng khừng trên sân khấu, đến Thái Thanh trong phòng thâu tại đài Tự Do, đến Mai Hương với chiếc răng khểnh, đến Văn Phụng với nét mặt bon papa thiếu một chiếc răng cửa, đến Kim Tước trong thư viện nhạc, đến Anh Ngọc người đóng phim Yêu chung với tôi, đến Nghiêm Phú Phi với nụ cười thật khiêm nhượng so với cái tài thật lớn của ông, đến Hoàng Vĩnh Lộc với giọng nói ngập ngừng…

Quỳnh Giao còn viết về các nghệ sĩ ngoại quốc từ Tony Bennett đến Yo Yo Ma đến Charles Aznavour đến Maria Callas đến Nữ Hoàng nhạc Soul Aretha Franklin đến Luciano Pavoratti đến Edith Piaf đến Mozart đến “dòng sông xanh” của Strauss…đến sự tích của “trở về mái nhà xưa” – “come back to Sorrento”, Phạm Duy làm lời Việt. 
Và khi Quỳnh Giao viết về những đề tài này thì “mười phân vẹn mười”, cả đối tượng của bài lẫn văn phong.

Có một nhà văn người Mỹ mà tôi không nhớ tên nói: Những người viết tiểu thuyết thường là chân thật hơn những người viết tiểu sử tự thuật.
Lý do là tiểu thuyết gia biết là mình bịa chuyện và nhận là mình bịa chuyện. Còn những người viết tiểu sử tự thuật lúc nào cũng nghĩ là mình viết ra sự thật. Và cứ đọc mãi những lời mình viết về mình thì đâm ra tin vào những gì mình viết về mình.

Những bài tạp ghi có cùng một mẫu số chung với những tác phẩm tự thuật. Đó là họ thường dùng ngôi thứ nhất – tôi – trong câu văn. Quỳnh Giao vì là đàn bà nên được quyền xưng tên một cách rất dễ thương (bạn thử tưởng tượng ra cái cau mày khó chịu của mình khi nghe anh Nguyễn Đình Toàn xưng tên trong bài viết của anh – chẳng hạn như… thay vì “Quỳnh Giao cho là”… thì thành “Nguyễn Đình Toàn cho là”….). Nghe nó làm sao ấy.

Chỉ có cái khác là trong các bài tiểu sử tự thuật, cái tôi là chính, là trọng điểm của bài văn. Còn trong những tạp ghi của Quỳnh Giao thì cái tôi được dùng một cách rất khiêm nhượng trong việc đưa tới cho người đọc những cảm nghĩ vụn vặt nhưng lắng đọng và đầy ý nghĩa của tác giả về một bài hát, một giọng ca, một nhạc sĩ, một cây đàn, một sự kiện trong lịch sử âm nhạc có thể ai cũng biết, ai cũng nghe, nhưng ít khi ngừng lại để suy nghĩ, phân tích và viết xuống.

Khác với những người viết tiểu sử tự thuật, người viết tạp ghi chủ quan nhưng không đề cao cái tôi của mình (Muốn tìm biết Quỳnh Giao đã làm những gì thì quý vị phải đọc ở trang bìa sau, với một tấm ảnh nhỏ mặc áo dài tím, đeo kiềng vàng rất xinh). Cho nên viết Tạp Ghi thật là dễ và cũng thật là khó. Và tạp ghi của QG rất chủ quan vì nó đưa ra những nhận định riêng của người viết. Chẳng hạn như:
- Về bài “Việt Nam Minh Châu Trời Đông” của nhạc sĩ Hùng Lân, QG viết : 
UY NGHI, LẪM LIỆT VÀ NHÂN BẢN NHẤT VÌ PHƠI PHỚI HỒN NƯỚC MÀ KHÔNG SẮT MÁU ĐÒI PHANH THÂY UỐNG MÁU QUÂN THÙ”. 
Đã từ lâu tôi vẫn mong một ngày nào đó “Việt Nam Minh Châu Trời Đông” được chọn làm quốc ca vì thấy bài này hay quá, hùng tráng quá. Tôi chỉ biết là mình muốn mà không biết tại sao. Quỳnh Giao đã giải thích cái tại sao đó cho tôi bằng câu trên.

Viết về nhạc sĩ Lê Thương, tác giả của Hòn Vọng Phu và của Tuổi Thơ và Thằng Cuội – Cuội ơi ta nói Cuội nghe, ở trên trăng mãi làm chi… Quỳnh Giao viết : 
“Ở MỘT HOÀN CẢNH TỐT ĐẸP KHÁC, NƯỚC TA ĐÃ PHẢI CÓ MỘT VƯỜN HOA THIẾU NHI MANG TÊN ÔNG”.

Mấy ai nghĩ đến chuyện vinh danh cho người nhạc sĩ có công lớn với văn hóa này? Tôi nghĩ đây là một nhận xét đầy nhân bản, đầy văn hóa của một nghệ sĩ về một nghệ sĩ.

- Muốn biết tại sao người ta gọi Quỳnh Giao là Ca sĩ mà không là “Hát sĩ”? Mà gọi thế là đúng. Quý vị về mở computer xem một vài cái YouTube ghi lại những hình ảnh các ca sĩ trình diễn ngày xưa rồi mở cuốn Tạp Ghi, đọc đến trang 281, thì biết.

- Nói về những tác phẩm tạm gọi là “Bán Cổ Điển Tây Phương” của Việt Nam, Quỳnh Giao viết: 
"Những nhạc sĩ đó muốn nâng cao trình độ nghệ thuật và mở ra những chân trời khác. Chúng ta thấy họ là những người cô đơn. Họ sáng tác cho chính họ và nhiều khi cũng chẳng mong đợi là tìm ra người tri kỷ trong đám đông”.

Quỳnh Giao đã viết dòng này thay cho một số không nhỏ những nghệ sĩ sáng tác, gồm đủ mọi bộ môn văn hóa, nghệ thuật.

- Khi nói về Debussy, tác giả của La Mer, Quỳnh Giao nhắc lại một câu trả lời của ông lúc còn bé đi học nhạc: “Nghe thấy sướng là nhạc pháp.” Các nhà phê bình văn học có thể đem văn chương của Quỳnh Giao ra mổ xẻ từng dòng từng chữ. Nhưng riêng tôi, sau khi đọc xong tập Tạp Ghi này, tôi chỉ biết nói là: “Đọc thấy sướng là văn phong”.
Khi đọc Tạp Ghi Quỳnh Giao, chúng ta còn khám phá ra cái thường được gọi là “những viên ngọc nho nhỏ” trong văn chương. 
Ví dụ như:
-Đây là một vài dòng nói về bản nhạc “Bolero” nổi tiếng: 
Ban đầu nó mơ hồ cất lên từ hư vô, nhưng chỉ sau vài giây đã có gì đó day dứt lay gọi. Sau đó, nó là tiếng sáo bay bổng giữa dàn giây làm người nghe muốn đứng dậy, uốn éo….Nó là một vũ khúc ngày càng dậm dật thôi thúc với nhiều nhạc cụ đan lượn nỗi day dứt ban đầu, rồi cứ trào dâng, lả lơi, mời gọi….”

- Quý vị thử nghe câu này Quỳnh Giao viết về lúc người ca sĩ không còn ca nữa, kịch sĩ không còn đóng kịch nữa:
Cũng như nghệ thuật nấu ăn, nghệ thuật giã từ sân khấu là phải….để cho đời thèm…”. 
Có những đầu bếp muốn người ăn nhiều đến khi bội thực. Có những nghệ sĩ muốn chết già trên sân khấu. Ít người nghĩ đến chuyện này. Lại càng ít người thực hiện được chuyện này.

- Về Văn Cao, Quỳnh Giao viết: 
“Quỳnh Giao cứ buồn mãi về hoàn cảnh đất nước và tâm trạng riêng của ông khiến các ca khúc đã gây xúc động cả CHIẾN TRƯỜNG lẫn TÌNH TRƯỜNG”.
Câu này chúng ta có thể gán cho nhiều nhạc sĩ như… Phạm Duy, Phạm Đình Chương, Trần Thiện Thanh. Ai cũng biết điều đó nhưng viết thành một câu, dùng những chữ CHIẾN TRƯỜNG lẫn TÌNH TRƯỜNG” như trên chắc chưa ai làm được.

- Trong một bài khác, Quỳnh Giao viết: 
“Người hát hay làm thính giả yêu bài ca, làm hồi sinh khúc nhạc, làm lời ca sống mãi… Sau rồi… người ta quên cả nhạc sĩ lẫn ca sĩ, chỉ còn nhớ tác phẩm và những rung động mà bài hát cũ đã gợi lại”.

Thật vậy, có những bản nhạc tôi nghe say mê từ hồi còn mê nhẩy đầm và nhớ mãi. Có một bài bắt đầu là: “Yêu nhau trong cuộc đời, mơ duyên tình dài, gắn bó đôi lời.” Lúc đó tôi không biết tác giả là ai, ai hát, chỉ biết tên bài là “Ngăn Cách”. Nhưng khi “Ngăn Cách” được hát lên với giai điệu boston trong vũ trường thì thế nào tôi cũng phải kéo đào ra sàn nhẩy. Bây giờ mỗi lần có “Ngăn Cách” là tôi kéo vợ ra sàn nhẩy.

Quỳnh Giao còn cho tôi cơ hội học thêm tiếng Anh. Chẳng hạn như khi cô dùng chữ “Tâm Ca Da Đen” để dịch điệu nhạc “Soul” thì thật là tuyệt vời. Tôi là một dịch giả. Và tôi cũng đã nhiều lần tìm cách dịch chữ “Charisma” một cách thật “nhuyễn” trong tiếng Anh sang tiếng Việt nhưng chưa làm được thì Quỳnh Giao đã làm hộ tôi bằng cách dịch chữ này là: “Sự cuốn hút thiên bẩm”. Lại còn thêm dấu chấm hỏi (?) đằng sau như thể không biết mình dùng chữ thế có đúng không. Thank you very much, madam!

Trong bài Hội Hoa Đăng, nói về nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, Quỳnh Giao viết: “Khúc hát càng cao càng hiếm người thưởng ngoạn.” 
Chúng ta thay hai chữ “Khúc Hát” bằng những chữ như thơ, văn, kịch, tranh, tượng vv…và câu này vẫn đúng.

Tôi muốn dùng một câu tương tự để kết luận về cuốn Tạp Ghi của Quỳnh Giao: “Sách của Giao kén người đọc”; cũng như tiếng hát của Quỳnh Giao kén người nghe…. Nhưng người sáng tác, nghệ sĩ trình diễn không dễ gì đi ngược lại bản chất cố hữu của mình. Và vì thế tôi hy vọng là Quỳnh Giao sẽ còn viết nhiều, nhiều nữa. Hát nhiều, nhiều nữa.
Và cám ơn Quỳnh Giao đã cho tôi cơ hội lên đây nói chuyện tâm tình với một thành phần khán thính giả rất chọn lọc.
__________________
Bài phát biểu của kịch sĩ Lê Tuấn tức nhà văn và dịch giả Luân Tế trong buổi ra mắt sách Quỳnh Giao tại miền Nam California vào Tháng 10 năm 2011.