Cụ
NGUYỄN DU viết ra Truyện Kiều, mục đích chỉ mượn văn chương để gởi tấm lòng
cùng thiên cổ. Nghĩa là viết cho mình, viết vì mình. Thế mà một khi ra đời Truyện
Kiều đã gây ra không biết bao nhiêu chuyện trong làng văn, ngoài làng văn. Như
bói Kiều, tập Kiều, vịnh Kiều, lên án nhân vật Truyện Kiều (Kiều án); kẻ thì
cho Truyện Kiều là “Quốc Hồn Quốc Túy” như Phạm Quỳnh, người chê là “Dâm thư”
như Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế…, gây một phong trào bút chiến sôi nổi trong một
thời…
|
Trong
những câu chuyện chung quanh Truyện Kiều, thì việc vịnh Kiều thường xảy ra nhiều
chuyện lý thú. Như chuyện cụ Từ Đạm và một ông Đồ Nghệ, là một.
Cụ
Từ Đạm đậu tiến sỹ, thích ngâm vịnh và rất ưa đồ cổ. Lúc cụ ngồi Tuần Vũ Ninh
Bình [1],
một hôm có một ông Đồ Nghệ xin vào ra mắt. Quan Tuần cho vào. Ông Đồ vái chào rồi
nói:
-
Nghe tiếng quan lớn là người háo cổ. Tôi có một món đồ cổ xưa nay bất ly thân.
Nay qua đây hết tiền tiêu, nên đem đến cầm cho quan lớn.
Quan
Tuần bảo đưa xem. Ông Đồ trình lên một gói cột ràng cẩn thận. Mở ra xem thì là
một chiếc khăn nhiễu thâm đã bạc màu. Quan Tuần giận đỏ mặt, song nghe xưng là
Đồ Nghệ lại thấy diện mạo khôi ngô, thái độ ngạo nghễ, nên không dám thị oai,
chỉ nghiêm giọng quở:
-
Thầy muốn cầm đồ thì ra tiệm mà cầm, chứ sao lại đem vào đây?
Ông
Đồ ung dung đáp:
-
Nghe tiếng quan lớn biết phân biệt giá trị các thứ đồ cổ, tôi mới đem vào, chớ
đối với phường chỉ biết tiền là qúi thì đem đến làm chi cho mất thể diện con
người biết đọc sách.
Biết
là con người ngang ngạnh, quan Tuần dịu giọng, bảo:
-
Thầy cần tiền, thôi không cần phải cầm đồ cầm đạc chi cho mệt, tôi ra cho một
câu đối, nếu đối hay tôi xin tặng tiền lộ phí để trở về quê.
Ông
đồ chấp thuận. Quan Tuần bèn ra đối rằng:
- Quân tử cố cùng, quân tử cùng quân tử
cố.
Ông
đồ nói liền ứng khẩu đối:
- Khổng Minh cầm túng, Khổng Minh túng Khổng
Minh cầm.
Quan
Tuần khen hay. Đoạn truyền lính hầu đưa đến nhà khách thết đãi cơm nước.
Lúc
bấy giờ trời đã trưa. Ông Đồ ăn uống xong trở lên tìm quan Tuần, thì quan giả
cách đi nghỉ để tránh. Ông Đồ hỏi lính hầu:
-
Quan nằm đâu?
Lính
hầu đáp:
-
Nơi nhà mát. Nhưng giờ này không vào được.
Ông
Đồ cho biết rằng quan lớn dặn phải đến ngay sau khi ăn cơm xong vì có chuyện gấp.
Lính hầu ngỡ thiệt đưa ông Đồ vào.
Quan
Tuần đang nằm nghỉ, thoáng thấy ông Đồ, liền quay mặt vào trong, nhân có quyển
Kiều để bên cạnh, vội cầm lấy giả đò xem. Ông Đồ đứng đợi hồi lâu không thấy
quan trở mình, bèn đến gần, đập nhẹ nơi chân. Quan Tuần giật mình quay lại:
-
Thầy đến làm gì nữa?
Ông
Đồ cười:
-
Món nợ văn chương đâu phải một bữa cơm rượu sơ sài mà đủ.
Quan
Tuần không đáp, quay mặt vào trong và cầm sách đọc. Ông Đồ cười lớn:
-
Sách gì mà quan lớn đọc mê thế?
Vừa
nói vừa đến giật xem và bảo:
-
Tưởng sách gì lạ té ra Kiều!
Quan
Tuần ngồi phắt dậy, quở:
-
Sao thầy vô lễ thế? Đối với quyển Kiều, Dực Tông Hoàng Đế còn tán thưởng, huống
thầy sao lại dám xem thường?
Ông
Đồ đáp:
-
Tiên Đế khen là khen văn chương của tác giả, chớ thân thế nàng Kiều chỉ hai câu
là đủ nói hết, hà tất phải viết cả quyển như thế !
Quan
Tuần cười gằn:
-
Thân thế nàng Kiều chỉ hai câu là tả đủ! Thầy nói được mà làm được, tôi xin trọng
thưởng.
Ông
Đồ nói:
-
Đối với bọn sỹ phu chúng tôi thì lời nói đi đôi với việc làm. Chỉ sợ nhà quan
hai chữ khẩu đó thôi.
Quan
Tuần có ý mắc cỡ, cười gượng, nói:
-
Không bao giờ nuốt lời. Chỉ chưa phải lúc đó thôi. Câu đối khi nãy giá đáng 5
quan. Nếu tả được thân thế nàng Kiều trong hai câu thì sẽ thưởng gấp đôi.
-
Tức là 15 quan tất cả. Văn chương vô giá. Sao cũng được, miễn rằng quân tử nhất
ngôn.
Nói
đoạn ứng khẩu đọc:
Nghĩa trước hẹn
hò con đĩ Đạm,
Duyên sau lăn
lóc bố cu Từ.
Quan
Tuần điếng cả người! Vì câu thơ có ý nói xỏ về việc hẹn nợ văn chương. Nói xỏ
cũng không sao, nhưng tác giả lại mượn tên Từ Hải và Đạm Tiên, để kêu đích danh
quan Tuần ra mà chửi! Nhưng không bắt bẻ ngõ nào được, nên quan đành nuốt đắng,
truyền người nhà đem tiền ra tống khứ ông Đồ!
Ông
Đồ đi được một lúc, thì một người khăn áo đàng hoàng, cũng nói tiếng Nghệ, vào
yết kiến quan Tuần Vũ. Người này trông có vẻ hiên ngang, song có lễ độ. Quan hỏi:
-
Thầy đến có việc gì dạy bảo?
Khách
kính cẩn thưa:
-
Tôi mới nghe tin em tôi đã vào quấy quá quan lớn. Quan lớn đã không bắt tội, lại
còn thưởng tài văn chương. Nên tôi xin đến tỏ lòng cảm phục đức độ quan lớn.
Lời
nói lễ phép, giọng nói ôn tồn. Song nghĩ đến lời chửi xỏ vừa rồi, quan Tuần rất
căm tức. Nhưng chưa tìm được lời đáp cho ổn, thì khách đã nói tiếp:
-
Bẩm quan lớn, câu thơ vịnh Kiều của chú em đó vốn là một câu thơ cũ. Chú nó chỉ
sửa lại đôi chút để làm của mình. Thế mà quan lớn thưởng đến 10 quan, tưởng quá
sức rộng rãi.
Quan
Tuần ngồi làm thinh. Khách tiếp:
-
Câu chú em trình quan lớn đó là cặp luận của một bài thơ tám câu. Nếu quan lớn
cho phép, tôi xin đọc trọn bài nguyên tác.
Vốn
ưa thích văn chương, quan Tuần lẽ nào lại không chấp thuận. Khách liền đọc:
Khép
cửa phòng thu những đợi chờ
Mà
em mất nết tự bao giờ!
Chàng
Kim dại gái còn đeo đuổi,
Viên
Ngoại thương con chết ngất ngư!
Bạc
mạng nghìn thu con đĩ Đạm,
Anh
hùng nửa kiếp bố cu Từ.
Mười
lăm năm ấy bao nhiêu sướng!
Oán
trách làm chi đứa bán tơ.
Quan
Tuần nghe xong nghiêm sắc mặt, nói:
-
Các thầy kể cũng đã hay chữ. Song đều là người có học mà không có hạnh. Sao
không dùng tài mình để giúp dân giúp nước, mà lại phí thì giờ đi trêu chọc
thiên hạ như thế. Nhưng tôi xin nói thật: Quí thầy muốn mượn nhân vật trong Kiều
để ám chỉ tôi, song câu “Bạc mạng nghìn thu… Anh hùng nửa kiếp…” lại là cái điềm
không tốt cho hai thầy. Trong hai thầy, thầy nào là anh thì thân thế ứng vào vế
trước, thầy nào là em thì vế sau. Hai thầy nên cẩn thận.
Khách
bái tạ ra về.
Sau
xét ra thì ông đồ tới trước là cụ SONG NGƯ còn khách tới sau là cụ SÀO NAM. Và
lời bàn của cụ Từ Đạm quả đúng với thân thế của SONG, SÀO.
Câu
chuyện trên, trong Chương Dân thi thoại có nhắc đến. Nhưng lại chép rằng: Thầy
Đồ Nghệ bị tội gì đó, cụ tuần Từ Đạm bắt giam. Ở trong nhà giam, cả ngày thầy Đồ
ngâm Kiều inh ỏi. Quan Tuần đến hỏi:
-
Chắc thầy giỏi Kiều lắm. Vậy hãy vịnh thân thế nàng Kiều trong hai câu. Nếu làm
được sẽ thưởng.
Thầy
đồ liền đọc:
Nghĩa trước nhạt
nhèo con đĩ Đạm
Duyên sau lăn
lóc bố cu Từ.
Trong
Chương Dân Thi Thoại chỉ nói sơ qua có chừng nớ, và không nói rõ thầy Đồ Nghệ
tên chi.
Còn
trong các sách khác thì chỉ chép 8 câu thơ mà không nói rõ nguyên nhân sáng
tác.
Câu
chuyện tôi kể trên là nghe lóm được lúc thiếu thời. Không dám chắc là đúng trăm
phần trăm. Nên rất mong được các bậc cao minh chỉ giáo.
***
Xem
bài thơ trong câu giai thoại, chúng ta nhận thấy tác giả thuộc phái có ác cảm với
Truyện Kiều.
Đó
là phái thiên về đạo đức, chỉ muốn đem văn chương dùng để tải đạo.
Thơ
chỉ trích Kiều rất nhiều. Nhiều bài được truyền tụng. Được truyền tụng nhất là
bài trong câu giai thoại trên và bài sau đây tương truyền là của cụ Phan Văn Trị:
Tài
sắc mà chi hỡi Thúy Kiều,
Nghĩ
thương nên phải trách đôi điều:
Ví
dầu Viên Ngoại lâm cơn biến
Chẳng
học Đề Oanh mách tiếng kêu?! [2]
Mái
tóc chàng Kim tình biết mấy,
Lượng
vàng họ Mã giá bao nhiêu!
Liêu
Dương nghìn dặm xa chi đó,
Nỡ
để Lâm Truy bướm dập dìu!
Chúng
ta không cần bàn xem trách như thế, chê như thế có chính đáng chăng, có công
bình chăng. Vì không khéo lại gây một cuộc bút chiến như mấy mươi năm về trước,
làm tủi vong linh cụ Tiên Điền. Để mua vui với nhau, chúng ta chỉ đưa ra, một
cách khách quan, những bài thơ chúng ta nhận thấy có lý thú. Nếu có bàn, chỉ
bàn về mặt văn chương. Như hai bài trên, văn chương thật lưu loát, già dặn. Cho
nên đến cả những người có mỹ cảm cùng Kiều cũng không thể bỏ mà không đọc.
Tản
Đà tiên sinh tuy rất khâm phục cụ Tiên Điền, song đối với Thúy Kiều vẫn không
có mỹ cảm. Vịnh đoạn Thúy Kiều gảy đàn cho Hồ Tôn Hiến nghe sau khi Từ Hải đã
sa cơ bị hại, Tản Đà có bài rằng:
Tiếng
sấm ân tình bốn mặt ran
Tướng
quân chi tiếc cánh hoa tàn!
Hai
hàng nước mắt hai làn sóng,
Nửa
đám ma chồng nửa tiệc quan!
Tổng
Đốc có thương người bạc mạng, [3]
Tiền
Đường chưa chắc mả hồng nhan.
Xa
xa nấm đất bờ sông nọ,
Hồn
có nghe chăng mấy điệu đàn?!
Lời
quá ư mỉa mai, có thể nói là tàn nhẫn! Nhưng hay thì thật là hay!
Cụ
Tam Nguyên Yên Đỗ Nguyễn Khuyến đối với cảnh ngộ Thúy Kiều cũng không có lòng
thương xót. Cụ có bài mượn chuyện Thúy Kiều để chỉ trích bọn tham quan ô lại
đương thời, rằng:
Thằng
bán tơ kia giở mối ra
Làm
cho bận đến cụ Viên già!
Muốn
xong việc ấy ba trăm lạng,
Không
có sau này một chiếc thoa.
Nổi
tiếng mượn màu son phấn mụ,
Đem
thân chuộc lấy tội tình cha.
Có
tiền trăm chuyện xong xuôi hết! [4]
Đời
trước làm quan cũng thế a?
Tưởng
đời nay làm quan mới “vạn sự giai do TIỀN định” ai ngờ đời trước cũng thế! Giận
bọn làm quan “chỉ vì tiền” mà phải mượn Thúy Kiều làm đòn kê để chặt! Nếu tác
giả có mỹ cảm cùng họ Vương thì không bao giờ nỡ làm thế.
Có
thiện cảm cùng Vương Thúy Kiều, trước hết phải giới thiệu cụ Lập Trai PHẠM QUÍ
THÍCH, người đồng thời cùng cụ NGUYỄN DU. Có bài thơ vịnh Kiều bằng Hán văn:
Giai nhân bất thị đáo Tiền Đường,
Bán thế yên ba trái vị thương.
Ngọc diện khởi ưng mai Thủy quốc,
Băng tâm tự khả đối Kim Lang.
Đoạn trường mộng lý căn duyên liễu,
Bạc mạng cầm chung oán hận trường.
Nhất phiến tài tình thiên cổ lụy,
Tân thanh đáo để vị thùy thương?
Tác
giả tự dịch ra Nôm rằng:
Giọt
nước Tiền Đường chẳng rửa oan,
Phong
ba chưa trắng nợ hồng nhan!
Lòng
tơ còn vướng tình Kim Trọng,
Gót
ngọc khôn vùi dặm Thủy quan. [5]
Nửa
giấc đoạn trường tan gối điệp,
Một
giây bạc mệnh dứt cầm loan.
Cho
hay những kẻ tài tình lắm,
Trời
bắt làm gương để thế gian.
Cũng
như Tiên Điền, PHẠM LẬP TRAI mượn thân thế Thúy Kiều để gởi tâm sự. Thúy Kiều
chỉ là cây đa mà Thanh Hiên và Lập Trai là thần nương tựa. Tuy vậy ông thần có
ưa thích, cây đa có thích hợp với ông thần, thì thần mới ỷ cậy được. Ông thần
nhờ có cây đa mà có nơi nương tựa, cây đa nhờ ông thần mà trở thành linh
thiêng. Đó là tương ỷ tương y vậy.
Cũng
mượn cảnh ngộ Thúy Kiều để nói cảnh ngộ mình, ông Tôn Thọ Tường sau mấy mươi
năm phục vụ chánh phủ Pháp, lúc về hưu trí có một luật rằng:
Mười
mấy năm trời nhục rửa xong,
Sông
Tiền Đường đục hóa ra trong.
Mảnh
duyên bình lãng còn nong nả,
Chút
phận tang thương lắm ngại ngùng!
Chữ
hiếu ít nhiều trời đất biết,
Gánh
tình nặng nhẹ chị em chung.
Soi
gương thiên cổ thương mà trách
Chẳng
trách chi Kiều trách hóa công. [6]
Cũng
thì mượn thân thế Thúy Kiều để ký thác tâm sự, nhưng Phạm Lập Trai chỉ thở than
mà không oán trách, còn Tôn Thọ Tường lại bào chữa phân trần. Song, rằng hay đều
thật là hay, hay mỗi bên mỗi vẻ mà bên nào cũng mười phân vẹn mười.
Cụ
Phạm đối với ông Tôn là bậc tiền bối. Đồng thời cùng Tôn Thọ Tường ở Nam Kỳ có
Đỗ Minh Tâm, tục gọi là Nhiêu Tâm, cũng có tài ngâm vịnh. Ông Nhiều cũng có bài
Vịnh Kiều, rằng:
Sắc
tài có một đỉnh đình đinh,
Khắp
cả giang san tiếng nổi phình!
Duyên
chị mà em theo lẻo đẻo,
Nợ
chàng rồi thiếp sạch sành sanh.
Ra
đi đầu đội muôn phần hiếu,
Trở
lại vai mang một chéo tình.
Mười
mấy năm trời nhơ rửa sạch,
Khúc
đàn nhà gảy tịch tình tinh.
Bài
này không biết có phải vì Tôn Thọ Tường mà làm ra chăng. Bốn câu sau đồ đậm ý tứ
bài của ông Tôn. Ông Tôn ra làm việc cùng chánh phủ Pháp là vì “gia bần thân
lão” chớ thật lòng không có lòng “sự địch cầu vinh”:
-
Chữ hiếu ít nhiều trời đất biết,
Gánh
tình nặng nhẹ chị em chung.
Cho
nên:
-
Ra đi đầu đội muôn phần hiếu,
Trở
lại vai mang một chéo tình.
Người
đời đã xét cho nông nỗi ấy thì:
-
Mười mấy năm trời nhơ rửa sạch,
-
Sông Tiền Đường đục hóa ra trong.
Và
- Cung đàn nhà gảy tịch tình tinh…
Tình
ý trong hai bài hô ứng nhau như tiếng và vang, nên đoán rằng có liên hệ mật thiết.
Còn
về phần văn chương thì bài ông Nhiêu như một cô gái quê nhí nhảnh, còn bài của
ông Tôn thì là một vị phu nhân nơi tử các hồng lâu. Bài của ông Tôn thì vì mình
mà làm. Bài của ông Nhiêu thì vì người mà có. Mỗi bên có một thú vị riêng.
Thơ
Vịnh Kiều còn nhiều lắm. Và đọc qua những bài thượng dẫn, chúng ta nhận thấy rõ
ràng hai phái: Một phái ghét Kiều, một phái thương Kiều. Nhưng ghét cũng như
thương đều không phải vì Kiều mà ngâm vịnh. Một bên vì đạo đức, một bên vì tâm
sự riêng. Một bên thì lấy Kiều làm tấm bia để bắn tên, một bên thì mượn Kiều
làm ông đồng bà cốt để cho tâm sự mình làm cậu, làm cô.
[1] Câu chuyện xảy ra lúc
Từ Đạm làm Tri phủ ở một phủ thuộc tỉnh Nam Định (1903-1904) lúc ấy cụ Phan
cùng cụ Đặng đang đi vận động ở Miền Bắc. Còn Từ Đạm làm Tuần Vũ Ninh Bình
(1908-1920).
[2] Bài này trong Giai
Thoại Làng Nho, Lãng Nhân chép nhiều chữ khác. (Xem Giai Thoại Làng Nho trang
510).
[3] Sau tác giả đổi chữ
“Tổng Đốc” ra “Tôn Hiến” để đối cho chỉnh với chữ “Tiền Đường”.
[4] Có sách chép: Có tiền
việc ấy mà xong nhỉ”…
[5] Câu này có sách chép
là:
- Lòng tơ còn vướng chàng Kim
Trọng
Mặt ngọc khôn đành chốn Thủy
quan.
- Lòng băng chảng thẹn tình Kim
Trọng
Mặt ngọc khôn vùi sóng Thủy Quan.
[6] Bài của cụ Phan Văn
Trị trước kia, do bài này mà làm ra và làm ra cốt để chỉ trích ông Tôn giận cá
chém thớt nghĩ tội cho Thúy Kiều.