Hễ
nói đến Bình Định, trăm người như chục, mười người như một đều nói đến Võ chớ
không mấy khi nói đến Văn.
Không
phải vì Bình Định là đất hữu võ vô văn, mà chính vì ánh sáng của các ngôi văn
tinh bị ánh trăng hào kiệt là lu mờ như cảnh tượng đêm rằm tháng tám.
Võ
Bình Định nổi tiếng khắp trời Nam đất Bắc do các vị anh hùng nữ kiệt:
-
Tây Sơn tam kiệt
-
Bùi Thị Xuân
-
Trần Quang Diệu
-
Võ Văn Dõng
-
Lê Chất
-
Võ Trứ
-
Mai Xuân Thưởng
-
Tăng Bạt Hổ, … vân vân…
là những nhân vật lịch sử mà không ai không biết
danh.
Ngoài
ra còn có các võ sư đem tài nghệ, kẻ ra Bắc người vào Nam, truyền thụ cho những
tay anh tuấn. Như Đội Chương và Voi Con ra Nghệ Tĩnh huấn luyện nghĩa quân
Quang Phục của Phan Sào Nam. Như Nguyễn Đa vào Gia Định dùng núi Thất Sơn làm
võ trường đào tạo được nhiều trang nghĩa hiệp, cải tạo được một số lục lâm thảo
khấu trở thành những tay hảo hớn, mà ngày nay ở địa phương còn nhắc nhở đến
tên.
Thanh
danh của các nhà võ chẳng khác tiếng trống tiếng chuông… lấn át những tiếng tơ
tiếng trúc của các nhà văn dù có tài năng lỗi lạc. Thậm chí có nhiều vị văn võ
toàn tài, nhưng hào quang bên võ quá rực rỡ làm chói mắt bàng nhân, khiến nhiều
nhà hữu tâm khi đề cập đến quí vị cũng chỉ nhắc đến võ công mà bỏ sót văn nghiệp.
Trong
trường hợp này, anh hùng MAI XUÂN THƯỞNG là nhân vật tiêu biểu.
***
Mai
anh hùng người thôn Phú Lạc, quận Bình Khê, tỉnh Bình Định, đồng hương cùng Tây
Sơn tam kiệt.
Năm
Ất Dậu (1885), sau khi đậu cử nhân về, anh hùng ứng nghĩa Cần Vương, dấy nghĩa
binh chống Pháp. Ngót ba năm trời chiến đấu anh dũng, nghĩa binh bị đại bại trận
Bàu Sấu. Một thân một ngựa, Mai anh hùng chạy vào mật khu Linh Đỗng (Bình Khê),
quyết xây dựng lại lực lượng để diệt thù.
Lúc
vào Linh Đỗng anh hùng có bài:
CẢM
THUẬT
Không
tính làm chi cuộc mất còn
Nợ
trai lo trả ấy là khôn
Gió
đưa hồn nghĩa gươm ba thước
Đá
tạc lòng trung núi mấy hòn
Đỏ
lòa bìa sách máu là son
Rồi
đây ngọc luật đưa xuân lại
Một
khóm mai già nảy lộc non.
Linh
Đỗng là nơi bí hiểm, có thế “bách nhị sơn hà”. Giặc biết anh hùng ẩn náu ở đó,
nhưng không dám truy tầm. Kẻ cầm đầu quân giặc là hai tên khát máu: Trú sứ
Aymonier và Đốc Phủ Sứ Trần Bá Lộc. Chúng bắt lý hương và tráng đinh ba thôn
Phú Phong, Phú Lạc, Trinh Tường (Bình Khê) cùng bà cụ thân sinh Mai anh hùng,
đem tống giam tại đình làng Phú Phong, và hẹn trong mười hôm nếu anh hùng không
xuất thú, thì bắt đầu từ ngày thứ 11, cứ mỗi ngày sẽ đem ra giết năm người, và
đến ngày thứ 21 thì giết hết già trẻ ba thôn, đốt hết nhà cửa trong toàn hạt.
Tánh
háo sát và tàn bạo của giặc đã làm cho xương máu người Việt Nam, từ Bình Thuận
trở ra, chập chồng lai láng. Và từ ngày chúng đến Bình Định, lương dân đã bị thảm
sát không biết bao nhiêu người vô tội, vô can.
Mai
anh hùng được tin, hết sức đắn đo suy nghĩ. Liệu không thể cứu vãn tình thế
trong một mai một chiều được, nếu kéo dài cuộc kháng chiến sẽ gây thêm tang tóc
cho nhân dân, anh hùng bèn đích thân đến trại giặc để thay chết cho mẹ và cho đồng
bào. Giặc dụ hàng. Anh hùng khẳng khái đáp:
-
Chỉ có đoạn đầu tướng quân chớ không có hàng đầu tướng quân.
Lúc
ngồi trong ngục ở Phú Phong, anh hùng khẩu chiếm bài thơ:
CHẾT
Chết
nào có sợ chết như chơi
Bởi
chết vì dân chết bởi thời
Chết
hiếu chi nài xương thịt nát
Chết
trung bảo quản cổ đầu rơi
Chết
nhân tiếng tốt bia ngàn thuở
Chết
nghĩa danh thơm rạng mấy đời
Thà
chịu chết trong hơn sống đục
Chết
nào có sợ chết như chơi.
Giặc
giam anh hùng ở Phú Phong một ngày một đêm, rồi đưa xuống thành Bình Định. Đoàn
quân áp giải theo nam ngạn sông Côn mà đi. Mai anh hùng ngồi trên ngựa, hai tay
bị trói. Mai phu nhân khăn gói theo chồng, thoăn thoắt đi trước đầu ngựa. Xúc cảnh
sanh tình, anh hùng ứng khẩu:
Giang thượng đông lưu vô tử đệ
Mã tiền tây hạ hữu giai nhân.
Nghĩa
là:
Trên
sông nước chảy xuôi dòng
Con
em ngoảnh lại tịnh không bóng nào
Riêng
thương chút phận má đào
Khoan
thai trước ngựa anh hào đưa chân.
Một
bức tranh vừa bi vừa tráng!
Nhớ
lại cảnh Cai Hạ thời Hán Sở tranh hùng: Bốn mặt tiếng ca nước Sở vang dầy.
Trong trướng Hạng Võ cùng Ngu Cơ ngồi uống rượu. Hạng cảm khái vỗ kiếm ngâm:
Lực bạt sơn hề khí cái thế
Thời bất lợi hề chùy bất thệ
Chùy bất thệ hề khả nại hà?
Ngu hề Ngu hề nại nhược hà!?
Nghĩa
là:
Sức
nhổ núi hề hùng khí ai bì
Thời
không lợi hề ngựa Chùy không đi.
Ngựa
không đi hề biết làm sao đây?
Ngu
hề Ngu hề tính làm sao đây?
Ngu
Cơ rút gươm vừa múa vừa họa lại:
Hán binh dĩ lược địa
Tứ diện Sở ca thanh
Đại vương ý khí tận
Tiện thiếp hà liễu sinh.
Nghĩa
là:
Đất
đai binh Hán chiếm rồi
Bốn
bên tiếng Sở vang trời khúc ca
Khí
anh hùng đã tiêu ma
Tấm
thân bồ liễu sống mà chi đây!
Đoạn
quày gươm tự vẫn. Hạng Võ lên ngựa chạy ra bờ sông Ô Giang…
Treo
hai bức tranh tình Cai Hạ và Côn Giang bên nhau, thì một bên là Tây Thi một bên
là Chiêu Quân. Nhưng nhân vật Cai Hạ có phần phẫn hận ai quan. Nhân vật Côn
Giang, phong độ ung dung, thật thanh thoát tự tại.
Hai
bài thơ CHẾT và CẢM THUẬT, văn chương bi hùng. Các vị tiền bối phê là “Cảm
khái chi trung hữu khẳng khái tại”. Còn hai câu khẩu chiếm trên bờ Côn
Giang thì ngậm chứa khí vị phong lưu. Đều là những giai phẩm.
Và
anh hùng MAI XUÂN THƯỞNG là một bậc phong nhã anh hùng. Công cuộc cứu quốc tuy
không thành, sự nghiệp văn chương để lại tuy không lớn, nhưng tài đức vẫn treo
cao cùng núi Tượng sông Côn.
Trong
Kiều có câu:
Xưa
nay những đấng tài ba
Chết
là thể phách còn là tinh anh.
Trường
hợp Mai anh hùng chứng minh cho lời ấy.
Ở
Bình Định các bà mẹ ru con, các người chị ru em thường hát:
Chim
kêu dưới suối Đá Dàng
Em
còn chút mẹ cậy chàng viếng thăm.
Suối
Đá Dàng ở trên hòn Dương Thạch Sơn thuộc thôn Phú Lạc, quê hương Mai Anh hùng.
Và câu thơ kia là của Mai anh hùng nhắn cùng bạn đồng chí là cụ nghè Vân Sơn.
Nguyên
Mai anh hùng tuẩn quốc, bà cụ thân sinh cùng một số sỹ phu tham gia phong trào
- trong đó có cụ nghè Vân Sơn Nguyễn Trọng Trì - được miễn tội nhưng bị quản
thúc chặt chẽ. Mãi sau khi đã đặt vững nền đô hộ trên toàn cõi Việt Nam, bọn thực
dân mới nới vòng kiềm tỏa. Chừng ấy các thân hào nhân sỹ mới qua lại với nhau
được tự do.
Dưới
triều Khải Định (1916-1925), một đêm nọ, các nhân sỹ hạt Bình Khê hội nhau tại
Phú Phong, cầu tiên để hỏi thăm việc nhà việc nước. Tiên giáng cọ, nhưng không
xưng tên chỉ viết:
-
Thỉnh Vân Sơn tiên sinh.
Từ
Phú Phong xuống Vân Sơn có trên vài chục cây số. Nếu đi thỉnh cho được cụ Nghè
thì trời sáng rồi còn cầu khẩn gì nữa. Nên ai nấy đều ngó nhau… Chưa biết nên
giải quyết cách nào cho ổn thì cọ viết cho biết rằng cụ Vân Sơn hiện nằm tại
nhà một người bạn ở xóm trên.
Các
nhân sỹ cho người đi mời. Cụ Nghè đương nằm mát nơi Tây hiên. Trời nóng nực ghẻ
ngứa ngáy, cụ không ngủ được bèn nghĩ thơ Ghẻ làm vui. Không giấy bút, nghĩ được
câu nào cụ lấy ngón tay viết lên không trung câu nấy. Nghe nói “tiên mời”, cụ
cao hứng trở dậy khoác áo đi ngay.
Cụ
Nghè vừa đến nơi thì cọ liền cử động viết ngay một bài thơ. Cụ Nghè giật mình,
vì chính là bài “thơ ghẻ” cụ vừa phúc thảo. Tiếp theo cọ viết luôn bài thơ họa
là một toa thuốc chữa ghẻ. Hỏi danh hiệu, cọ không đáp mà chỉ thách xướng họa
thơ. Hai bên xướng họa cho đến gà gần gáy. Thơ xướng họa toàn bằng Hán tự và chỉ
chứa đựng khí vị phong lưu, chớ tuyệt nhiên không đả động đến thời thế. Các
nhân sỹ có ý chán, lần lượt bỏ về hết. Lúc đã thưa người, cọ liền viết một câu
thơ Quốc âm:
Nghìn
thu Hà Nhạc vương theo bóng
Một
gánh quân thân gởi lại chàng.
Cụ
Nghè biết thần tiên không phải người xa lạ, nhưng chưa đoán biết là ai. Muốn hỏi
mà chưa kịp hỏi thì cọ viết tiếp:
Chim
kêu dưới suối Đá Dàng
Em
còn chút mẹ cậy chàng viếng thăm.
Cụ
nghè liền ôm cọ khóc rống:
Mai
nguyên soái! Mai nguyên soái! Cố nhân ôi, cố nhân!
Câu
chuyện không mấy lúc đã truyền xa. Nhưng rồi ngày lại ngày qua, già đi trẻ đến,
câu chuyện bị gió mưa phai lạt, chỉ còn nghe “Chim kêu dưới suối Đá Dàng”. [2]
Song
khách du đi ngang qua sông Côn, nghe các cô hái dâu ven bờ sông, các cô chống
đò dọc theo con sông… cất cao giọng hát:
Ngó
vô Linh Đỗng mây mờ
Nhớ
Mai nguyên soái dựng cờ đánh Tây
Hầm
Hô cữ nước còn đầy
Còn
gương phấn dũng còn ngày vinh quang.
Thì
những trang lịch sử máu hòa son lâm ly bi tráng sao khỏi mở dần ra trước mắt và
trước mắt sao cho khỏi:
Biển
sâu thấp thoáng hồn Tinh Vệ