Tìm
hiểu tác giả qua thơ là một phương pháp thông dụng của những người yêu thơ vì
thơ.
|
Còn
tìm hiểu thơ qua tác giả là phương pháp của phần đông các nhà nghiên cứu.
Phương
pháp sau dễ đạt được mục đích hơn phương pháp trước. Vì không biết rõ tác giả thì
không biết rõ được tâm sự gởi gấm trong thơ, không biết rõ được trường hợp sáng
tác để tìm thấy ảnh hương của ngoại cảnh vào nội tâm của tác giả. không biết được
những cái ấy thì không sao thấy được những gì chìm ở dưới nét chữ lời văn.
Ví
dụ bài NGŨ TỬ TƯ XUY TIÊU mà nhiều người ở Trung và Nam thuộc lòng:
Lạc
loài nước bước dạ trăm chiều
Ngơ
ngẩn quê người một ống tiêu
Trời
Sở oán theo mây cuộn cuộn
Đất
Ngô buồn giục gió hiu hiu
Tấm
ơn da tóc so dày mỏng
Nghìn
dặm non sông cảm ít nhiều
Lòng
bạn tri âm chưa gặp gỡ
Thẹn
thùng cúi ngửa biết bao nhiêu.
Giọng
văn êm dịu, nghe thích thú như nghe tiếng tiêu vẳng trong sương chiều thu.
Chắc
cũng có bạn vì ít đọc sách Tàu nên thắc mắc:
-
Ngũ Tử Tư là ai mà có tiếng tiêu đẹp nhưng buồn như thế ấy?
Xin
thưa:
-
Ngũ Tử Tư là người nước Sở đời Đông Châu Liệt Quốc. Cha và anh bị vua Sở giết
oan, Tử Tư giận trốn sang nước Ngô lánh nạn và tìm kế phục thù. Đến Ngô lương cạn,
phải dong các chợ thổi tiêu xin ăn.
Lúc
bấy giờ công tử Quang muốn cướp ngôi vua nước Ngô, sai người tâm phúc là Bỵ Ly
đi tìm kẻ có tài về phò tá. Bỵ Ly đến chợ Mai Lý thì nghe tiếng tiêu của Tử Tư,
biết là người có tâm sự, lại xem tướng mạo biết là bậc phi thường, bèn tiến dẫn
lên Công tử Quang. Công tử Quang gặp được Ngũ Tử Tư như rồng gặp mây, Ngũ Tử Tư
gặp được công tử Quang như cá gặp nước. Rồi tương y tương ỷ, công tử Quang nhờ
tài lực của Tử Tư mà được lên làm vua nước Ngô, Ngũ Tử Tư nhờ binh mã của nước
Ngô mà rửa được hận.
Biết
được sự tích dùng trong thơ rồi thì ngoài cái thú do hình ảnh âm nhạc câu thơ
gây nên, chúng ta hưởng thêm cái thú về tình ý khéo chọn lựa khéo sắp xếp.
Nhưng
đó mới là cái thú thưởng tiếng đàn trong dây tơ, mùi ngon trong vị của thực phẩm.
Nhà
thơ chân chính ít khi làm thơ để mua vui hoặc để khoe tài, mà luôn luôn để ký
thác. Cho nên thơ vịnh sử, vịnh cảnh, vịnh vật… hầu hết không phải vì người
trong sử, không phải vì cảnh trước mắt, vật trước mắt, mà trải ý chuốt lời, mà
chính vì lòng của tác giả. Cho nên người đọc có thấy được chỗ dụng tâm của tác
giả thì mới là tri âm, và mới hưởng được cái thú của “ngoại vị chi vị, ngoại
huyền chi thanh”.
Bài
thơ Ngũ Tử Tư Xuy Tiêu trên đây, không biết tác giả là ai, nên không thể biết
được tâm sự gởi gắm trong thơ.
Có
người bảo là của ông Thủ khoa BÙI HỮU NGHĨA. Không lấy gì làm chắc. Huống nữa
dù quả thật tác giả là ông Thủ khoa Bùi đi nữa, cũng không biết được ông làm
bài đó trong trường hợp nào, hoàn cảnh nào để tìm hiểu tâm sự. Bởi trong nét đại
cương từ bối cảnh lịch sử cho đến cuộc đời chìm nổi của ông Thủ khoa không có
chỗ giống cảnh ngộ của Tử Tư.
Nghe
tiếng tiêu lâm ly, Bỵ Ly biết được Ngũ Tử Tư là người có tâm sự. Xem lời thơ bi
tráng chúng ta cũng biết rằng người làm thơ có nỗi cô phẫn không giải tỏa được
nên phải mượn văn chương để khiển hoài. Nhưng không biết rõ tâm sự như sao, nên
cam chịu chung cảnh của Lý Thanh Liên thấy mỹ nhân khóc:
Mỹ nhân quyển châu liêm
Thâm tọa tần nga my
Đản kiến lệ ngân thấp
Bất tri tâm hận thùy.
Nghĩa
là:
Người
xinh cuốn bức rèm châu
Ngồi
im thăm thẳm nhăn cau đôi mày
Chỉ
hay giọt lệ vơi đầy
Đố
ai biết được lòng này giận ai?!
(Tản
Đà)