Trong
thời kỳ phong trào Thơ Mới đương lên (1932-1941) NGUYỄN VỸ có cho ra đời một
bài thơ, mỗi câu chỉ có hai chữ, tục gọi là “Thơ Hai Chân”, nhan đề là SƯƠNG
RƠI:
|
Sương
rơi
Nặng
trĩu
Trên
cành
Dương
liễu…
Nhưng
hơi
Gió
bấc
Lạnh
lùng
Hiu
hắt
Thấm
vào,
Em
ơi !
Trong
lòng
Hạt
sương
Thành
một
Vết
thương !
|
Rồi
hạt
Sương
trong
Tan
tác
Trong
lòng
Tả
tơi.
Em
ơi !
Từng
giọt
Thảnh
thót,
Từng
giọt
Điêu
tàn
Trên
nấm
Mồ
hoang !
|
Rơi
sương
Cành
dương
Liễu
ngã
Gió
mưa
Tơi
tả
Từng
giọt
Thảnh
thót,
Từng
giọt
Tơi
bời
Mưa
rơi,
Gió
rơi,
Lá
rơi,
Em
ơi !
|
Nhiều
người cho rằng Nguyễn Vỹ lập dị, sáng chế ra lối thơ mười hai chân như thơ
Alexandrin của Pháp chưa đủ kỳ, lại còn thêm lối thơ hai chân nữa.
Nhưng
theo tôi không có gì là lập dị cả. Bởi vì “lập dị” là làm việc gì lạ lùng để
cho khác với thiên hạ, chớ thơ mười hai chân rất thạnh hành ở Pháp. Còn thơ hai
chân thì Pháp cũng có, Việt Nam cũng có.
Ở
Pháp như bài của Victor Hugo:
On
doute
La
nuit:
J’
écoute
Tout
fuit,
Tout
passe;
L’
espace
Efface
Le
bruit.
Khóc
cái chết của một cô gái xuân, thi sỹ Jules de Rességuier lại làm cả thơ một
chân:
Fort
Belle
Elle
Dort…
Sort
Frêle
Quelle
Mort
!
Và
cùng một lúc với bài Sương Rơi của Nguyễn Vỹ, ở Nha Trang cũng sản xuất một bài
thơ Nhị âm, tức hai chân, nhan đề là LÁ HỒNG:
Gió
thu
Vi
vu
Thổi
rụng
Lá
hồng
Trên
dòng
Sông
rộng
|
Lá
hồng
Mãi
trôi
Theo
cùng
Dòng
sông
Mênh
mông
Về
nơi
Xa
xôi,
|
Gieo
trong
Cõi
lòng
Nữ
lang
Mơ
màng
Bên
sông
Nỗi
buồn
Miên
man…
|
Bài
này của nhà thơ trẻ tuổi quê quán Khánh Hòa tên là PHẠM ĐÌNH NGUYÊN, cũng học
trò trường trung học Qui Nhơn, sau Nguyễn Vỹ hai lớp. Họ Phạm mất năm 1940, tuổi
mới chừng 27, 28 !
Bài
thơ của họ Phạm chỉ truyền miệng trong các bạn thân, chớ không đăng báo, nên
không có tiếng vang như bài của họ Nguyễn. Thời bấy giờ, ở Nha Trang có nhiều
người cho rằng họ Phạm đã bắt chước họ Nguyễn. Sự thật thì không ai bắt chước
ai cả. Tôi là một nhân chứng. Nguyễn Vỹ là bạn học trên tôi một lớp, Phạm Đình
Nguyên học dưới tôi một lớp. Nguyễn Vỹ lúc bấy giờ ở Hà Nội. Tôi ở Nha Trang thường
qua lại cùng Phạm Đình Nguyên. Khi bài Sương Rơi xuất hiện trên tuần báo Đông
Tây ở Hà Nội (1937) thì ở Nha Trang, bài Lá Hồng đã được phổ biến trong hàng bạn
thân rồi.
Có
người lại khen họ Nguyễn và họ Phạm đã sáng chế ra một thể thơ mới.
Sáng
chế là chưa có mà làm cho có trước tiên, chớ thơ hai chân, ở Pháp có rồi, ở Việt
Nam cũng đã có từ nghìn xưa kia mà. Ở nhà quê, các em thường làm mèo, lấy hai
ngón tay trỏ kéo chằn hai khóe miệng cho rộng ra và lấy hai ngón tay cái vạch
mí con mắt phía dưới cho rộng ra, rồi kêu ngao ngao. Để cho cuộc chơi thêm linh
động và thích thú, một em đứng trong rào làm mèo cái, một em đứng ngoài rào làm
mèo đực. Miệng chằn, mắt vạch, mèo đực “nói” một câu, mèo cái “nói” một câu,
đem chắp lại thành một bài thơ nhị âm liên vận:
-
Ngao… "
-
Tao. "
-
Ngõ nào ? "
-
Gai quào. "
|
-
Đứa nào ?
-
Hãy vào.
-
Hàng rào.
-
Không sao.
|
Đó
không phải thơ hai chân là gì?
Còn
một bài nữa cũng rất được các
em ở thôn quê dùng trong những trò vui:
Sú
hột
Sú
hạt
Gió
tạt
Nồi
cơm
Lửa
thổi
Bằng
rơm
Nồi
cơm
Hóa
nhão
|
Lấy
chảo
Nấu
canh
Dĩa
sành
Đựng
cá
Cá
sơn
Cá
liệc
Cá
giếc
Cá
tràu
|
Ăn
hối cho mau
Cầm
hòn mà chạy.
Chạy
u
Chạy
quạ,
Chạy
ngả vườn sau,
Bẻ
một buồng cau,
Chạy
về mà nghỉ.
|
Như
vậy thể thơ nhị âm, tức hai chân, không phải mới có. Nhưng chỉ dùng làm những
bài ca nho nhỏ cho trẻ em hát trẻ em chơi mà thôi. Nguyễn Vỹ và Phạm Đình
Nguyên đã có công làm cho làng văn làng thơ để ý đến thể thơ ấy.
Và
thể thơ nhị âm một khi đã vào tay một nhà thơ có tài thì giá trị có kém gì những
thể thơ được các thi nhân yêu chuộng. Phê bình bài “Sương Rơi”, tác giả tập Thi
Nhân Việt Nam nói rằng:
-
Nguyễn Vỹ đã sáng tạo ra một nhạc điệu riêng để tả một cái gì đương rơi. Cái gì
đó có thể là những giọt sương, cũng có thể là những giọt lệ, hay những giọt gì
vẫn rơi đều đều, chậm chậm trong lòng ta mỗi lúc vẩn vơ buồn ta đứng một mình
trong lặng lẽ.
Bài
“Lá Hồng” của Phạm Đình Nguyên cũng là một bài có giá trị. Đọc lên chúng ta cảm
thấy buồn buồn, một nỗi buồn vô cớ, nhè nhẹ đều đều như dư âm tiếng quay tơ dưới
bóng trăng khuya lạnh lẽo.
Tuy
không gây được ảnh hưởng như Nguyễn Vỹ nhưng cũng như Nguyễn Vỹ, Phạm
Đình Nguyên đã đưa thể thơ nhị âm của Việt
Nam, từ địa vị thấp kém (dùng cho trẻ em mua vui, không có văn chương chỉ cần
nói bắt vần cho dễ nghe là được), lên địa vị ngang với các thể thơ khác trên nền
văn học. Rất tiếc là ít người hưởng ứng, nên ngoài hai bài trên, chưa thấy ai
có bài nào khác được truyền tụng.
Thể
thơ nhị âm làm cho hay không phải dễ. Không khéo sẽ thành những bài vè dùng để
vui đùa, hoặc những bài thơ tứ ngôn. Hai bài trích dẫn của Nguyễn Vỹ và Phạm
Đình Nguyên là hai bài Nhị âm thành công.
Ngoài
bài Sương Rơi, Nguyễn Vỹ còn nhiều bài nhị âm khác cũng rất có giá trị. Nhưng
phần nhiều có lẫn câu ba chữ hoặc, bốn, năm, sáu… chữ. Hoàn toàn hai chữ, còn
có bài sau đây:
HOÀNG
HÔN
Một
đàn
Cò
con
Trắng
nỏn
Trắng
non
Bay
về
Sườn
non.
Gió
dục,
Mây
dồn,
|
Tiếng
gọi
Hoàng
hôn
Buồn
bã
Nỉ
non.
Từ
giã
Cô
thôn…
|
Còn
con
Cò
con
Trắng
nỏn
Nào
kia,
Lạc
bầy
Lại
bay
Vào
mây,
Ô
kìa!
|
Đọc
lên chúng ta thấy bóng cò bay đôi cánh nhịp nhàng theo tiết điệu của câu thơ.
Cũng thì hai chữ, cũng đồng một tác giả, mà nhạc điệu của hai bài thơ khác hẳn
nhau. Mỗi bài một vẻ, mà mười phân vẹn mười.
Vậy
thơ hay hay dở là do tác giả có tài hay không có tài chớ nào phải tại thể thơ?