Khi viết văn làm
thơ, một số tác giả, nhất là phái có Hán học, thường mượn một sự tích xưa, hoặc
một câu văn câu thơ cổ, để diễn tình diễn ý của mình, nhưng không kể rõ sự tích
ấy, không dẫn cả câu nguyên văn, mà chỉ dùng một vài chữ liên hệ.
|
Cách ấy gọi là
dụng điển cố.
Lấy sự tích xưa
“sai sử” cho nó ứng dụng vào văn thơ của mình, thường gọi là DÙNG ĐIỂN.
Lấy chữ trong cổ
văn cổ thi đem vào thơ mình để cho văn thơ mình ngậm chứa một phần lớn ý nghĩa
của toàn câu cổ văn cổ thi ấy một cách kín đáo. Đó là MƯỢN CHỮ.
Xin mượn bài thơ
BÁN CHỮ của Phan Sào Nam sau đây làm ví dụ:
Thưa
các anh em, các chị em
Chữ
tôi hay lắm phải pha dèm. [1]
Trời
e sao đổ ngăn người đọc,
Đất
sợ sông nhào đón kẻ xem. [2]
Sấy
lửa cha Tần càng quí lắm,
Chữa
phong chú Tháo lại kỳ thêm.
Tinh
thần một lối văn không mực,
Chả
tốn tiền mua cũng đã thèm.
Đó là bài “Rao
hàng” khi Phan tiên sinh mở Mộng Du Thi Xã. Bài thơ mượn chữ dùng điển khá
nhiều.
Trong câu thứ
ba, chữ “sao đổ” là mượn của Lý Thái Bạch.
Nguyên một hôm
Lý Bạch dong thuyền chơi đêm. Trước thuyền treo một lá cờ đề hai chữ “Thi Bá”.
Thuyền Đỗ Phủ đi qua trông thấy, Đỗ liền cất tiếng ngâm:
Hà nhân giang thượng xưng thi bá ?
Nguyện bả văn chương thí nhất khan.
Nghĩa là:
Dòng
sông ai ấy xưng thi bá ?
Đưa
thử văn chương thưởng chút nào.
Lý Thái Bạch
liền tiếp:
Thâm dạ bất kham đề tuyệt cú
Kủng kinh tinh đẩu lạc giang hàn.
Nghĩa là:
Thơ
hay chẳng nở đề đêm vắng,
Sợ
lạnh lòng sông rụng hết sao.
Từ ấy Lý Đỗ trở
thành đôi bạn chí thiết trong đời và trong thơ.
Còn chữ “sao đổ”
do chữ “tinh đẩu lạc” mà ra.
Còn chữ “sông
nhào” chưa rõ tác giả mượn chữ ở đâu. Trong bài “Giang thượng ngâm” cảu Lý
Bạch, có câu:
Hứng hàm lạc bút dao Ngũ Nhạc,
Thi thành tiếu ngạo lăng Thương Châu.
Nghĩa là:
Hứng
tới bút sa lay Ngũ Nhạc,
Thi
xong cười ngạo nuốt Thương Châu.
Không biết có
phải tác giả dựa theo ý hai câu ấy mà xuống chữ “sông nhào” chăng.
Nhưng dù lấy chữ
ở đâu, “sông nhào” cũng như “sao đổ” không phải là chữ “tạc không” tức là tác
giả tự đặt ra, mà đều là chữ có “xuất xứ”.
Và đó là “Mượn
Chữ”.
Còn câu năm, câu
sáu, tác giả dùng điển.
Câu “Sấy lửa cha
Tần” dùng điển Tần Thủy Hoàng đốt sách chôn học trò, để ám chỉ chánh sách ngu
dân của bọn cầm quyền lúc bấy giờ.
Câu “Chữa phong
chú Tháo” mượn điển trong Tam Quốc: Trần Lâm viết hịch kể tội Tào Tháo. Tào
Tháo đương bị cảm phong, đầu nhức hỏa xông, đọc bài hịch, liền toát mồ hôi,
khỏi bệnh. Mượn điển ấy để nhắn ngầm quốc dân rằng tác giả sẽ dùng văn chương
để lột trần dã tâm của bọn Thực Dân Phong Kiến, hầu mong chúng có sợ mà sửa đổi
chánh sách độc ác của chúng đi chăng.
Những chữ “Văn
không mực” cũng là “chữ mượn”. Đó là do những chữ “Vô ngôn thi”, “Vô tự kinh”
mà ra. Ý tác giả muốn nói:
- Lâu nay bọn
cầm quyền e sợ “sao đổ, sông nhào”, cấm đồng bào không cho đọc cho xem sách vở
cuả cụ, nên cụ phải mượn “Mộng Du Thi Xã” để liên lạc cùng các bạn hữu chí hữu
tâm… Nếu bọn chúng lại cấm nữa thì sẽ dùng đến cách “thần giao” để lòng nhau
thông cảm những khi cần.
Bài thơ kể cũng
khó hiểu.
Không phải tác
giả muốn khoe hay chữ hay làm “khó dễ” cùng độc giả, mà chính để tránh lưỡi kéo
độc ác của tòa kiểm duyệt đương thời. Vì những người coi về việc kiểm duyệt
thời Pháp thuộc đều là những người ít biết chữ Hán. Những kẻ chỉ học chữ Tây để
lo phụng sự cho quan thầy hầu kiếm giàu sang, thì làm gì biết điển cố trong văn
chương. Mà đã không biết điển cố thì làm gì hiểu thấu được dụng ý của tác giả.
nhờ thế mà bài thơ được đăng lên báo chí và truyền đi xa.
Dùng điển rất có
lợi:
- Câu văn gọn
ngắn mà bao hàm được nhiều ý nghĩa.
- Câu văn thêm
đẹp, lời văn thêm ý vị thêm thanh tao.
- Lời nói, ý
tưởng trong câu văn được chứng minh.
Dùng điển cố cho
khéo, chẳng những có lợi cho tình ý trong câu văn bài thơ, mà còn gợi thêm
trong tâm trí người đọc những hình ảnh những tư tưởng ở ngoài câu văn bài thơ.
Ví dụ đề Nghĩa
Lư bà ái cơ của Thanh Xuyên Hầu đời Tây Sơn, PHẠM THÁI có câu:
Cỏ
biếc chẳng treo hồn Sở trướng,
Trúc
vàng thà điểm giọt Ngu cung.
Thanh Xuyên Hầu
qua đời, bà ái cơ thắt cổ chết theo, nhưng người nhà cứu khỏi. Bà bèn cất nhà
bên mả chồng để cư tang. Câu trên dụng điển bà Ngu cơ vợ Sở vương Hạng Võ tự tử
ở Cai Hạ. Câu dưới dùng điển Nữ Anh Nga Hoàng khóc vua Ngu Thuấn tại Tương
Giang.
Hai câu đó đã
diễn tả tình cảnh và tâm sự của bà ái cơ một cách thấu đáo, mà còn gợi trước
mắt người thuộc điển tích, nhiều hình ảnh do những chữ “cỏ biếc”, “treo”, “hồn
Sở trướng”, “trúc vàng”, “điểm”, “giọt Ngu cung” gây nên… [3]
Nhưng dụng điển
cố không nên lạm dụng. Lạm dụng sẽ làm cho bài thơ bài văn nặng nề và mất phần
sáng tạo. Phải dùng cho đích đáng, nghĩa là điển cố mình dùng thích hợp với ý
mình một cách tự nhiên, chớ không gò bó ép uổng. Giọng văn lời văn lại còn phải
thích hợp với điển. Như thế điển mới “sống” văn mới hay. Điển cố là đồ nữ
trang. Không biết trang sức thì chỉ làm trò cười cho thiên hạ.
Dụng Điển có
nhiều cách:
- Minh dụng.
- Ám dụng.
- Thái dụng.
- Tá dụng.
MINH DỤNG là
dùng một cách chính xác rõ ràng.
Ví dụ Vịnh Trâu
mà dùng điển Điền Đan, Nịnh Thích:
+
Đuôi cùn biếng vẩy Điền Đan hỏa
Tai
nặng buồn nghe Nịnh Thích ca. [4]
+
Mắc mưu đốt đít tơi bời chạy,
Làm
lễ bôi chuông dáo dác sầu. [5]
Ví dụ nói về
tình trạng đất nước lúc Pháp đánh lấy Kinh thành Huế năm Ất Dậu, mà dùng điển
Gia Cát Lượng, điển Trần Hy Di:
+
Mỏi mắt Hy Di trời Ngũ Quí
vân vân…
Lối này là lối
thông dụng nhất nơi trường ốc cũng như trong làng thơ.
ÁM DỤNG là dùng
một cách kín đáo, mới đọc qua dường không có điển, nhưng xét kỹ thì là có điển.
Như bài TỰ THÁN của Nguyễn Trãi: [7]
Chiếc
thuyền lơ lững bên sông
Biết
đem tâm sự ngỏ cùng ai hay.
Chắc
chi thiên hạ đời nay
Mà
đem non nước làm rầy chiêm bao
Đã
buồn về trận mưa rào
Lại
đau về nỗi ào ào gió đông.
Mây
trôi nước chảy xuôi dòng
Chiếc
thuyền hờ hững bên sông một mình.
Không một chữ
khó. Dường là văn chương đầu lưỡi. Nhưng hầu hết các câu đều mượn ý trong cổ
thi. Câu một, hai mượn ý trong câu:
Thân tại giang hồ thượng
Tâm tồn ngụy khuyết trung.
Nghĩa là: Thân ở
trên sông hồ, lòng còn nơi Đế khuyết. Ý nói: Tuy không còn làm quan nữa nhưng
vẫn không quên nước không quên vua.
Chữ NON NƯỚC và
chữ CHIÊM BAO trong câu bốn, xuất phát nơi câu:
Lương mộng chức vị thành
Sơn hà kinh kỷ biến.
Nghĩa là: “Mộng
lành dệt chưa nên, núi sông đã bao lần biến đổi”. Đó là niềm thất vọng của kẻ
sỹ yêu nước, vì cô thế phải đành chịu bất lực trước những biến cố của quốc gia.
[8]
Đó là ám dụng
trung dụng điển, gọi tắt là ám dụng.
THÁI DỤNG là cắt
lấy những phần của điển thích hợp với ý mình muốn tả, với việc mình muốn nói,
và bỏ những phần không liên hệ hoặc tương phản với nội dung câu thơ. Ví dụ câu
thơ của cụ Phan Sào Nam:
+
Sấy lửa cha Tần càng quí lắm
Chữa
phong chú Tháo lại kỳ thêm.
Vế thứ hai là
Minh Dụng, vì ý của tác giả muốn nói và điển dùng tương đồng: làm cho đối
phương tỉnh ngộ. Đọc câu thơ, độc giả thấy rõ dụng ý ngụ ý của tác giả.
Còn vế thứ nhất,
tác giả chỉ mượn “chất lửa” trong điển đốt sách chôn học trò của Tần Thủy Hoàng
và bỏ tất cả những sự tai hại do việc đốt sách chôn học trò gây nên. Chẳng
những bỏ, tác giả, với chữ SẤY, đã “lật ngược vấn đề”: Ngọn lửa tàn bạo của vua
Tần sẽ vô cùng quí báu nếu biết sử dụng, nếu biết dùng để sấy cho ấm nhân tâm
đã bị khôi lãnh, sỹ khí đã bị tiêu trầm, khiến cho những người lạnh lạt trước
tình trạng đau xót của nước nhà, trở thành những người có hào khí, có nhiệt
huyết. Đó là vừa thái dụng vừa phiên trần. Tức là vừa cắt lấy những phần thích
hợp của điển và gạt bỏ những phần cũ kỹ để đưa những ý mới vào thơ.
Câu thơ của Phạm
Thái:
+
Cỏ biếc chẳng treo hồn Sở trướng,
Trúc
vàng thà điểm giọt Ngu cung.
Cũng như câu của
Phan Sào Nam, vế thứ hai minh dụng, vế thứ nhất thái dụng. Vì việc bà Long Cơ
thủ tiết không khác việc hai bà Nga Hoàng Nữ Anh thủ tiết. Còn tuy cũng một mục
đích như nhau - mục đích chết để tỏ lòng trinh tiết cùng chồng - nhưng bà Ngu
Cơ thì dùng gươm mà tự vẫn, còn bà Long Cơ thì dùng lụa để quyên sinh. Phạm
Thái cắt bỏ việc dùng gươm, chỉ lấy ý nghĩa của việc tuẩn tiết. Nhưng để cho rõ
là “tự ải”, tác giả dùng chữ TREO một cách tài tình. [9]
Cách thái dụng
của Phạm Thái cũng như Sào Nam thật lão luyện và tinh vi. [10]
TÁ DỤNG là dùng ké, là mượn mà
dùng, là mượn mà dùng. Ví dụ điển “Tào Tháo hoành sáo phú thi” trong bài phú
Xích Bích của Tô Đông Pha:
Năm Kiến An thứ 13 (208) để đánh Đông Ngô, Tào Tháo
kết thuyền trên sông Dương Tử tại huyện Gia Ngư. Thuyền nối nhau san sát, khí
thế rất mạnh. Tào Tháo đắc ý cầm ngang ngọn giáo, nhìn trăng ngâm thơ “Nguyệt
minh tinh hi, ô thước nam phi…” Nhưng rồi bị đối phương dùng hỏa công đốt
thuyền cháy sạch, Tào Tháo bị bại. Dãy núi ở trên bờ sông Dương Tử, một khoảnh
rộng lớn bị lửa đốt thành sắc đỏ, nên gọi là Xích Bích (Vách Đỏ).
Đời Tống, Tô Đông Pha (1036-1101) bị trích ở đất
Hoàng Châu. Ở Hoàng Châu cũng có một dãy núi đá sắc đỏ như dãy núi ở Gia Ngư và
cũng gọi là Xích Bích. Năm Nhâm Tuất (1082) ông Tô đi chơi thuyền dưới chân núi
ấy, cao hứng làm bài phú Xích Bích. Nhân Xích Bích này trùng tên cùng Xích Bích
kia, nên Tô Công nhớ đến việc Tào Tháo đời Tam Quốc mà mượn đem vào văn chương.
Trong
bài thơ ĐÔNG của Thái Thuận, câu luận:
Công danh thùy nghĩ Bình Hoài tướng
Nghĩa
là :
Công
danh ai dễ so Hàn Tín
Văn
sử ta riêng thẹn Tử Phòng.
Đó là tá dụng. Bởi điển Hàn Tín Trương Lương có liên
quan chi đến Mùa Đông. Chỉ có nhân cảnh gió mưa hiu hắt làm cho cây cỏ tiêu
điều mà tác giả liên tưởng đến thói bạc bẽo phủ phàng của thế nhân, và nghĩ
ngay đến Hán Cao Tổ là nhân vật điển hình cho thói bạc bẽo phủ phàng.
Nghĩ đối với nhà Hán, công ai lớn bằng công Hàn Tín,
và danh đối với người đương thời, danh ai rạng bằng danh Hàn Tín. Thế mà rốt
cuộc Hàn Tín bị Hán Cao Tổ tru di, thân bị hại danh nhơ! Thân hại danh nhơ do
bàn tay của con người đã nhờ mình dựng nên đế nghiệp! Hán Cao đối với Hàn Tín
tàn ác thua gì mưa gió mùa đông đối với nội cỏ ngàn cây!
Gương xưa còn
đó, sao mình không chịu soi để theo dấu Tử Phòng thoát ra ngoài vòng cương tỏa? Nghĩ mà thẹn thùng,
thẹn thùng vì còn ham bã vinh ba nên ra làm quan cùng triều nhà Lê mà Lê Thái
Tổ đã đối xử với công thần không khác gì Hán Cao Tổ
Câu
thơ của Thái Thuận, về cách dụng điển thì gọi là tá dụng, còn về cách diễn ý
thì gọi là gián tự. [12]
Tác
giả Tùy Viên Thi Thoại nói:
- Thi nhân không
nên câu nệ trong việc sử sự [13].
Như Bạch Lạc Thiên trong bài Trường Hận Ca có câu “Nga My sơn hạ thiểu nhân
hành” [14],
thì lúc Đường Minh Hoàng hạnh Thục, nào có đi ngang qua núi Nga My. Trong bài
thi Tiên Thành của họ Tạ, “Trừng Giang tịnh như luyện” [15],
thì Tiên Thành cách sông Giang đến trăm dư dặm và nơi huyện trị Tiên Thành phía
tả phía hữu đều không có sông lớn. Trong bài phú Thượng Lâm của Tương Như có
câu “Bát Xuyên phân lưu” [16],
thì nơi Tràng An đâu thấy tám sông.[17]
Đó
là Viên Mai nói về tá dụng.
Từ xưa đến nay
trong việc dụng điển, chỉ có cách minh dụng là phổ thông. Cách tá dụng, trừ thơ
chữ Hán của Tàu và của ta ra, trong bài thơ Hàn luật không thấy có lẽ do cái
học cử nghiệp mà ra. Bởi quy luật trường ốc đã nghiêm, phần đông quan chấm
trường lại cố chấp không dung thứ những gì ở ngoài khuôn phép đã định. Sỹ tử
muốn thi đậu phải lo học tập những phép chính cống trong việc làm thi. Cách tá
dụng không được các sách dạy làm thi soạn cho hàng cử tử chuyên nghiệp đề cập
đến, mà chỉ thấy bàn đến trong các sách thi thoại của Trung Hoa. Do đó các học
giả và thi nhân nặng về thơ cử nghiệp
không chấp nhận phép tá dụng [18]
Các bậc tiền bối dạy làm thơ chẳng những không dạy
cách tá dụng, mà còn khuyên không nên dùng những tịch điển và sanh điển.
-
TỊCH ĐIỂN là những điển bí hiểm ít người biết.
Trong những áng thơ hay còn
truyền thế không thấy ông cha ta dùng tịch điển. Có nhiều người lầm tưởng điển
khó, những điển ít thông dụng trong thơ Quốc âm, là tịch điển. Ví dụ những điển
dùng trong bài HOÀI CỔ NGÂM của Tương An Quận Vương:
Xiết
bao khóc tủi buồn thầm
Non
bạc tóc nước chau mày
Trăng
như thế sự thường ngày thường hao…
……………………
Chốn
chiến trường đống xương trắng nhẻ
Chơi
vơi sóng phủ sầu dồn
………………………
Thuyền
quyên hồn tắt, anh hùng lệ sa.
Bốn
giây ứa máu tỳ bà
vân vân…
Vì đề tài là Hoài Cổ nên tác giả đem những sự tích
của người xưa mà tác giả nhớ đến, ra làm tài liệu để xây dựng khúc ngâm. Trong
những cổ tích ấy có nhiều điển xa lạ với phần đông những người sanh vào thời
chữ Hán cáo chung để nhường chỗ chữ Quốc Ngữ và chữ Pháp trong học đường và
ngoài xã hội Việt Nam. Xa lạ vì không dùng đến chớ không phải vì bí hiểm. Cho
nên không thể gọi là Tịch Điển.
Cụ NGUYỄN QUÍ ANH, người Nam Bộ,
lúc lục tỉnh bị Pháp chiếm cứ, bỏ nhà ra Phan Thiết ở. Thơ đề biệt thự có câu :
Chiều
xem đất chiếu cuốn thành Nam Phố
Cụ HUỲNH THÚC KHÁNG họa vận:
Có nhiều người cũng cho là dùng tịch điển, làm mất
hứng thú của người đọc.
Những điển dùng trên đây, cũng như trong bài Hoài Cổ
của Tường An Quận Vương, đối với chúng ta có phần khó thật. Song đó là lỗi nơi
chúng ta ít đọc sách chữ Hán. Chớ đối với các cụ ngày xưa thì chẳng khác những
chỉ bàn tay đối với các thầy tướng số. Đối với quí cụ, TỊCH ĐIỂN là những điển
hiểm hóc, những điển không có trong các sách đã được phổ biến trong các sách đã
được phổ biến, nhất là Kinh, Truyện, Sử.
Người xưa cho là dùng tịch điển, như thơ vịnh tuyết
của Tô Đông Pha:
Đống
hợp ngọc lâu hàn khởi túc
Hoặc như thơ
Tống biệt của Huỳnh Đình Kiên:
- Lâm sương thu áp cước
Những chữ Ngọc
lâu, Ngân hải, Áp cước, Cầm cao đều không phải lấy trong các
chính sử và ngũ kinh tư thơ.
Những chữ ấy không còn mang nghĩa chính của chúng.
Ngọc lâu không phải là ngọc lâu, Ngân hải không phải là biển bạc, người chú
thích Tô thi giải rằng: Các nhà đạo sỹ gọi là Ngọc
lâu là
xương vai, Ngân hải là mắt. Còn Áp cước chỉ là cây rau ngân hạnh, vì
cây ngân hạnh, theo sách Bản Thảo, lá như ngón chân vịt, nhân đó mà mệnh danh.
Và Cầm cao là
chỉ con cá chép đỏ, vì
sách Liệt Tiên chép rằng đời Chu mạt có người thuật sỹ tên Cầm Cao ra vào sông
Hôn Thủy, cỡi cá chép đỏ, nhân đó gọi cá chép đỏ là Cầm Cao.
Ưa dùng tịch điển là người đời Tống. Đó là đo sức
bác học mà cũng do tánh ưa đấu hiểm của phần đông văn nhân. Người đời sau cực
lực chỉ trích, như Viên Mai, tác giả Tùy Viên Thi Thoại là một. [33]
Nói tóm lại cổ nhân chia điển làm:
- Chính điển là những điển lấy trong chính sử và Ngũ
Kinh Tứ Thơ. [34]
- Ngoại điển là những điển mượn trong sách của Bách
Gia Chư tử đã được phổ biến.
- Tịch điển là những điển rút trong những sách ít
người biết, ít người đọc. [35]
Còn SANH ĐIỂN là những điển sống, tức những sự việc
thuộc về quốc gia hay anh hùng liệt nữ vừa xảy ra và chưa được đem vào lịch sử.
Những sự kiện rút trong các sách mới xuất bản chưa được phổ biến rộng rãi, như
truyện, tiểu thuyết…, cũng gọi là Sanh điển.
Sanh điển đối trĩ cùng cổ điển.
Trong bài Đề Nghĩa Lư của Phạm Thái [36]
có câu:
Dệt
gấm Thanh Nê câu nhất tiếu
Thêu
nền Thúy Ái chữ tam tùng.
Vế thứ nhì dùng Sanh điển, điển bà Phan Thị Tuấn [37].
Bà Phan là thứ thất Ngô Cảnh Hoàn, tôi nhà Lê. Ngô Cảnh Hoàn giao chiến cùng
binh Tây Sơn bị tử trận tại sông Thúy Ái. Bà Phan Thị Tuấn sau khi mãn tang, tự
dìm mình nơi sông chồng tuẩn quốc, để cho trọn đạo tam tùng.
Nghĩa Lư là nơi thủ tiết của bà Long Cơ vợ thứ Thanh
Xuyên Hầu, người đồng thời cùng Ngô Cảnh Hoàn.
Tác giả bài Nghĩa Lư cũng là người đồng thời cùng
Ngô Cảnh Hoàn và việc bà Phan Thị Tuấn tuẩn tiết mới xảy ra trước việc bà Long
Cơ toan tự ải để theo chồng độ một vài năm.
Vì vậy điển bà Phan Thị Tuấn đối với chúng ta ngày
nay là cổ điển, nhưng đối với Phạm Thái lúc soạn bài Nghĩa Lư là sanh điển.
Cổ nhân khuyên không nên dùng sanh điển là vì sợ
người đương thời ít kẻ biết, và người hậu thế sẽ mịt mờ nếu những sự kiện lịch
sử kia không được biên chép, những quyển sách chứa số sanh điển kia không được
lưu thế. Mà không biết rõ điển tích dùng trong thơ thì làm sao thưởng thức được
trọn vẹn những cái hay cái thú của văn chương.
***
Chẳng những khuyên không nên dùng sanh điển tịch
điển mà thôi, cổ nhân cùng thường khuyên không nên dùng nhiều điển, dù là chính
điển. Chỉ nên dùng điển khi nào không đừng được. Có nhiều học giả công kích hẳn
việc dùng điển[38].
Nhưng khuyên ít dùng điển, công kích việc dùng điển, là nhắm vào những đối
tượng có thiên kinh vạn quyển trong bụng. Và những người đứng ra khuyên, đứng
ra công kích cũng là những người có thiên kinh vạn quyển trong bụng, kinh
nghiệm bản thân đã cho thấy rõ lợi hại. Chớ những người trong bụng chỉ chứa cao
lương mỹ vị thì tưởng không nên quên gương nàng Đông Thi.
[1] Có người đọc là: “Chữ tôi hay
lắm chẳng ai thèm”.
[2] Có người đọc là: “Đất sợ sông
xiêu ít kẻ xem”.
[3] Đã nói kỹ trong chương số 10 ở
trước.
[4] Thơ của Đặng Đức Siêu (xem
chương 36 ở trước).
[5] Thơ của Nguyễn Văn Lạc (Xem ở
chương 38).
[6] Thơ của Phạm Như Xương (Xem
chương 30 trước đây).
[7] Bài này tương truyền
là của Nguyễn Trãi, trong Văn Đàn Bảo Giám cũng chép là của Nguyễn Công. Song
không tìm thấy trong Ức Trai Quốc Ngữ Thi tập.
[8] Đã nói rõ trong NHỮNG BỨC THƯ
THƠ nên ở đây chỉ nói qua.
[9] Xem chương 10 nói về Phạm Thái ở
trước.
[10] Bài thơ của Sào Nam, thi vị kém,
chỉ có giá trị về cách dụng điển.
[11] Xem toàn bài ở chương 49 nói về thơ mùa Đông.
[12] Đã nói rõ ở tập Những
Bức Thư Thơ, nên ở đây chỉ nói đại lược về cách dùng điễn.
[13] Dụng điển thường gọi
là Dụng sự hay Sử sự (Sử dụng những sự kiện lịch sử, sử dụng những sự vật trong sách vở
hay ngoài đời những khi làm văn làm thơ ).
[14] Dưới núi Nga My ít
người qua lại.
[15] Sông Giang trong sáng
lúc tạnh trông như tấm lụa
[16] Tám sông chia dòng.
[17] Nghiêm Mông Hữu nói
rằng ngày xưa Trường An có 8 con sông là Kinh, Vị, Bá, Sản, Lệ, Kiểu, Lạo,
Duật, đến đời Tống thì bị lấp hết.
[18] Ông
bạn Đông Hồ chỉ trích việc dùng điển “Ô y hạng” vào “Đêm thu nghe quạ kêu” (xem
Úc Viên Thi Thoại) là đứng lên lập trường “dùng chính điển” không công nhận
phép “Tá Dụng”.
Ngũ Tư: Ngũ Tử Tư người nước Sở chạy qua nước Ngô lánh nạn.
Lương hết phài phải thổi tiêu cầu thực ở các chợ.
Ung Môn : Ung Môn Chu là môn khách của Mạnh Thường
Quân, có tài gảy đàn, tiếng đàn nghe ai oán làm rơi nước mắt Mạnh Thường.
[20] Quách
Ngỗi:
đời Chiến Quốc. Yên Chiêu Vương dựng lầu vàng gọi là Hoàng Kim đài rước Quách
Ngỗi về làm tể tướng. Nhân tài trong thiên hạ thấy nhà vua trọng hiền liền kéo
nhau đến phò tá.
[21] Biên Hòa Nước
Sở, được ngọc quí, đem dâng cho vua, vua cho là giả, truyền làm tội chặt chân,
chân chặt đến 2 lần dưới hai triều vua. Đến thời vua thứ ba mới có thợ giỏi đem
mài thành ngọc quí (Ngọc liên thành).
[22] Mượn ý trong câu thơ
cổ:
Khả
lân Vô Định hà biên cốt
Do
thị tham khuê mộng lý nhân
(Khá thương cho những xương cốt ở
bên sông Vô Định, mà còn là những người trong mộng chốn thâm khuê).
[23] Tinh Vệ: Con
gái vua Viêm Đế chết trôi, hóa thành chim tinh vệ, ngày ngày ngậm đá ở non Tây
đem lấp biển đông để rửa hận.
Đại phu: Chỉ Khuất Nguyên.
[25] Tỳ Bà: Tích Chiêu
Quân cống Hồ.
[26] Võng Xuyên:
Hiệu Vương Duy đời Đường, có tài thi và họa. Cổ nhân khen: Thi trung hữu họa,
họa trung hữu thi.
[27] Ngụy địa: Chỉ
nơi quân Pháp chiếm đóng. Lấy tích Quảng Ninh đời Tam Quốc, khi nhà Ngụy tiếm
ngôi nhà Hán, Quảng Ninh bỏ quê hương sang Liêu Đông thuộc nhà Ngô, làm nhà ở,
suốt đời không đạp chân lên đất Ngụy.
[28] Tà Xuyên: Hiệu
của Tô Lão Tuyền đời Tống.
[29] Đường Lý Đỗ:
Lý Bạch, Đỗ Phủ đời Đường.
[30] Tống sơn xuyên:
Sông núi nhà Tống. Cổ thi có câu: “Bất tri Kim nhật nguyệt, Đản mộng Tống sơn
xuyên” Nghĩa là “không biết ngày tháng rợ Kim, chỉ mơ đến non sông của nhà
Tống”.
[31] Giá hợp trên xương
vai, nhưng lạnh bắt đầu từ chân lạnh lên; ánh sáng làm giao động con mắt nên
thấy sanh hoa một cách huyễn hoặc.
[32] Sương rừng thâu rau
ngân hạnh; Lưới xuân dâng cá chép đỏ. (áp cước là rau ngân hạnh, cầm cao là cá
chép đỏ).
[33] Tác giả Tùy Viên Thi
Thoại bác lời giải thích của Tống nhân về nghĩa chữ Ngọc lâu và Ngân hải. Ông
nói chữ Ngọc lâu và Ngân hải dùng để tả sắc trắng của tuyết. Đó là việc thường
của nhà làm thi. Chớ nếu giải như Tống nhân thì chẳng lẽ trời xuống tuyết chỉ
đến nơi nhà người đạo sỹ mà thôi ư? Giải như Tống nhân thì vẫn có rộng nhưng ý
vị câu thơ trở thành lạt lẽo.
[34] Những ý những chữ lấy
trong cổ thi, cổ văn cũng được coi là chính điển.
[35] Tịch điển ở trong thơ
Quốc âm không thấy có. Có lẽ những câu dùng tịch điển đã bị loại vì ít người
hiểu nên ít người truyền.
[36] Xem toàn bài ở chương
10 nói về Phạm Thái.
[37] Xem sự tích bà Phan
Thị Tuấn đã nói rõ ở chương 14.
[38] Về việc dùng điển ở các
chương trước đã nói nhiều, ở đây chỉ nói đại lược.