Các
nhà văn nhà thơ Tây Phương thường thường vì yêu cảnh mà nói đến cảnh. Còn hầu hết
các nhà thơ nhà văn Đông Phương nói đến cảnh chỉ vì tình.
|
Nhưng
có lắm bài thơ Quốc âm nói đến cảnh, mà không phải vì cảnh cũng không phải vì
tình. Như bài:
HÒN
VAY HÒN TRẢ
Hỏi
thăm giàu có bấy lâu nay?
Qua
lại người đồn trả với vay.
Sỏi
đá vốn kia cao chất mãi
Cỏ
cây lời nọ nảy ra hoài.
Hẹn
hò ngày tháng chim năng nỉ
Tờ
khế năm mùa lá đổi thay.
Gánh
nợ tang bồng mong trả đặng
Bằng
không cũng có đất trời hay.
GÀNH
MÓM
Hứng
nắng non xanh tác chẳng già
Cớ
sao Gành Móm lại giô ra?
Rong
rêu quộp quạp râu Bành Tổ,
Đá
gộp do de mép Tử Nha.
Nước
súc phều phào cơn sóng vỗ
Khăn
lau quọc quạch đám mây qua.
Có
ai hỏi lão xuân thu mấy?
Rằng
thuở khai thiên đã có ta. [1]
Bài
Hòn Vay Hòn Trả là tác phẩm của ông HỌC Ý người làng Chánh Lộ tỉnh Quảng Ngãi.
Bài Gành Móm kẻ thì bảo của cụ HUỲNH MẪN ĐẠT, người thì bảo của cụ ĐẶNG ĐỨC SIÊU. 2
Cả hai nói đến cảnh chỉ vì tên cảnh ngộ nghĩnh. Tác giả chỉ lo khắc hoạch sao cho ra Vay ra Trả, sao cho ra Móm ra Gành. Còn hình núi ra sao, dáng gành ra sao, tình người đối với cảnh như sao…, thì không chút quan tâm đến!
Đó
là lối thơ cử nghiệp, lối thơ chỉ chú trọng đến đề bài chớ không thiết tha đến
tánh linh, đến thực tế.
Chính
lối thơ cử nghiệp đã làm mất cái bản chỉ, cái chân thú của thơ, và khiến cho
thơ Đường luật mỗi ngày mỗi suy lạc.
Nhưng
hai bài thơ trên, tuy nằm trong khuôn khổ thơ cử nghiệp song có nhiều tứ mới
làm cho vị thơ vừa đượm vừa tươi chớ không nhạt nhẽo khô khan như phần nhiều những
thơ “đồng loại”.
Cũng
như hai tác giả Hòn Vay Hòn Trả và Gành Móm, nhà chí sỹ Trần Cao Vân vịnh Hòn
Chồng Đực Hòn Chồng Cái ở Nha Trang, vì tên cảnh chớ không phải vì cảnh:
Đất
nắn trời nung khéo định đôi
Hòn
Chồng Đực Cái sánh hai ngôi.
Ông
xây nên đống cây trồi mụt
Bà
đúc y khuôn đá mọc chồi.
Mây
núi rũ giăng màn tịnh túc,
Nước
khe hầu rót chén giao bôi.
Non
thề giai lão trơ trơ đó
Gió
chẳng lung lay sóng chẳng dồi.
Bài
thơ Ông Chồng Bà Chồng của Hồ Xuân Hương cũng thuộc loại này:
Khéo
khéo bày trò hỡi Hóa công!
Ông
Chồng đã vậy lại Bà Chồng.
Tầng
trên tuyết điểm phơ đầu bạc
Thớt
dưới sương pha đượm má hồng.
Gan
nghĩa dãi ra cùng nhật nguyệt
Khối
tình cọ mãi với non sông.
Đá
kia còn biết xuân già dặn
Chả
trách người ta lúc trẻ trung.
Hai
bài này có tình, và cách hành văn dụng ý thoát ra ngoài khuôn sáo. Hương vị
đáng yêu hơn hai bài trên gấp bội phần.
Nhưng
cả bốn đều là những áng văn chương giá trị, không phải ai cũng có thể làm được.
Các bạn mới bước chân vào làng thơ, đừng nghe nói “thơ cử tử” đã vội xem thường
xem khinh. Muốn biết rõ chỗ sở trường sở đoản của lối thơ cử nghiệp ra sao, thì
cần phải thể nghiệm, ít ra cũng phải đọc qua “Thi pháp nhập môn” của làng thơ
xưa.
[1] & 2 Xem
chương “Thơ Bình Định” ở sau nơi mục nói về thơ cụ Đặng Đức Siêu.
-
Bài này nhiều sách chép có nhiều chữ khác. (Xem chương 35 ở sau).