Nước
ta từ ngày dùng khoa cử để chọn nhân tài thì những người muốn lập công danh đều
phải biết làm thơ thất ngôn bát cú. Bởi vì thơ là một món thi như phú, kinh
nghĩa, văn sách…
Do
đó mà mười người biết chữ hết chín người biết làm thơ.
Nhưng
biết làm thơ và hay thơ khác nhau. Hay thơ và thơ hay cũng khác nhau hẳn.
Biết
làm thơ tức là rành thi pháp, làm được những bài đúng niêm luật, hợp cách thức,
không phạm ngũ kỵ bát bệnh [1].
Thế thôi. Những người biết làm thơ chỉ làm khi nào không dừng được, khi nào bị
bắt buộc.
Còn
những người hay thơ là những người biết làm thơ hay không biết làm thơ, mà gặp
gì làm nấy, đụng đâu làm đó, đề hay cũng làm, đề không hay cũng làm, việc đáng
làm cũng làm, việc không đáng làm cũng làm… Chẳng khác hoa cỏ may nở khắp gò nổng
bụi bờ. Vì hay làm cho nên thơ nhiều đến chở cả xe đong cả đấu. Nhưng toàn giấy
vấy mực, chớ vàng ngọc không tìm thấy mảy may.
Đó
là hay thơ mà thơ không hay.
Thơ
hay không lọ đặt dài
Mở
ra đầu bài đã biết rằng hay.
Thơ
hay không phải hay chữ là làm được. Phải có thiên tư. Phải có thi cốt tức là
tâm hồn thơ. Thi cốt hay tâm hồn thơ không phải ai ai cũng có. Đó là của trời
cho, rất hiếm. Cho nên từ khi nước Việt Nam mở khoa thi chọn nhân tài., dùng
thơ làm món thi nơi trường ốc, từ đời Lý tới đời Nguyễn, gần nghìn năm, mà thơ
Việt Nam còn truyền lại không có mấy. Lê Quí Đôn, Phan Huy Chú… ra công sưu tầm
mà chỉ thu thập được chừng vài ba chục nghìn bài!
Đó
là về thơ chữ Hán.
Còn
thơ chữ Nôm, tức thơ Hàn luật?
Thơ
Nôm có sau thơ chữ Hán.
Người
Việt Nam biết làm thơ chữ Hán tự nghìn xưa. Đời Bắc thuộc, các nhà sư sang
Trung Hoa đã từng xướng họa cùng các thi sỹ trứ danh đời Đường, và còn lưu lại
nhiều bài kệ có giá trị về đạo lý lẫn văn chương. Sang thời kỳ độc lập, Pháp
Thuận thiền sư, vâng lệnh vua Lê Đại Hành, đã ứng khẩu đọc bài “nga nga lưỡng
nga nga” làm cho sứ giả nhà Tống phải khâm phục. Nhưng nếu lấy khoa cử làm khởi
điểm cho việc dùng luật thơ Đường ở Việt Nam, thì thơ chữ Hán “chính thức sản
xuất” triều Lý Nhân Tông, vào năm Ất Mão, niên hiệu Đại Ninh thứ 4 (1075) là
năm mở khoa thi Thái học sinh đầu tiên.
Còn
thơ chữ Nôm mới có từ triều Trần Nhân Tông (1279-1293) do Hàn Thuyên khởi xướng,
Nguyễn Sỹ Cố phụ họa. Thế là thơ chữ Nôm - tức thơ Hàn luật - có sau thơ chữ
Hán đến 200 năm.
Lại
thêm những người làm thơ chữ Hán này, nhiều người
không làm được thơ chữ Nôm, hoặc làm được song không được công xảo. Như trường
hợp Thái Thuận là một.
Thái
Thuận đậu tiến sỹ đời Lê Thánh Tông (1460-1497), còn để lại tập Lữ Đường Di Cảo
gồm trên vài trăm bài thơ, nhiều bài văn chương không nhượng thơ Đường, thơ Tống.
Như:
CHIÊU
QUÂN XUẤT TÁI
Nam lai trình tận bắc lai trình
Nam bắc na kham trướng biệt tình
Vạn lý Hán thiên ba hữu lệ
Bách niên Hồ địa mã vô thinh
Nhất đoàn la ỷ thương xuân lão
Kỷ khúc tỳ bà tố nguyệt minh
Phân phú quân vương an chẩm thượng
Sầu thành nhất phiến thị trường thành. [2]
Tạm
dịch:
CHIÊU
QUÂN RA ẢI
Bắc
trình dõi bước dứt nam trình
Nam
bắc đường chia mối thảm đoanh
Trời
Hán tuôn dòng hoa khóc tủi
Đất
Hồ im tiếng ngựa reo binh
Áo
cài xuân muộn bơ phờ dáng
Đàn
gãy trăng khuya não nuột tình
Nhắn
nhủ cung rồng yên giấc ngự
Sầu
thành một bức vững trường thành.
Nhưng
toàn nhiên không truyền được một câu Hàn luật!
Thời
Lê mạt Nguyễn sơ, ba ngọn núi cao vút đứng trong quần sơn nước thơ văn Quốc âm,
là:
-
Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều
-
Hồng Hà Đoàn Thị Điểm
-
Tố Như Nguyễn Du.
TỐ
NHƯ ngoài quyển Đoạn Trường Tân Thanh và Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh, giá trị
tuyệt luân, còn có ba tập thơ chữ Hán: Thanh Hiên Tiền Hậu Tập, Nam Trung Tạp
Ngâm, Bắc Hành Tạp Lục, hiện còn nguyên vẹn được gần 300 bài. Lắm bài tuyệt
tác:
ĐIỆP
TỬ THƯ TRUNG
Vân song tằng kỷ nhiễm thư hương
Tạ khước phong lưu vị thị cuồng
Bạc mệnh hữu duyên lưu giản tịch [3]
Tàn hồn vô lệ khốc văn chương
Đố ngư dị tỉnh phiền ba mộng
Huỳnh hỏa nan khôi cẩm tú trường
Văn đạo dã ưng cam nhất tử
Dâm thư do thắng vị hoa mang. [4]
Tạm
dịch:
BƯỚM
CHẾT TRONG SÁCH
Song
vân từng thấm vị thư hương
Bỏ
thú phong lưu há phải cuồng
Mệnh
bạc còn duyên vương sử sách
Hồn
tàn không lệ khóc văn chương
Khó
mong lửa đóm thiêu lòng gấm
Dễ
khiến thân sâu tỉnh mộng vàng
Đạo
lý sớm nghe chiều chết thỏa
Hoa
sao bằng chữ dám cưu mang.
Cũng
như Tố Như, ngoài bản dịch Chinh Phụ Ngâm nổi danh khắp nước, Hồng Hà còn tập Tục
Truyền Kỳ kỳ thú và chứa đựng hàng trăm bài thơ chữ Hán diễm kiều:
HOÀI
XUÂN
Lưu xuân vô nại khứ song song
Hồi khán tao phùng nhất mộng trung
Oán cảnh hữu hoài thương lại điệp
Phương tâm vô sứ thác chinh hồng
Lương tiêu tịch mịch cô đăng nguyệt
Thu dạ thê lương bán chẩm phong
Mặc mặc kỷ hồi thi tưởng bãi
Sâm hoành du tử ỷ ngâm song.
Tạm
dịch:
Xuân
biệt, cầm xuân luống uổng công
Gặp
xuân âu hẳn giấc mơ mòng
Bơ
sờ cảnh oán thương thân bướm
Đơn
chiếc lòng thơm gởi cánh hồng
Nương
bóng hắt hiu đèn dạ nguyệt
Nhắp
sầu lạnh lẽo gối thu phong
Giờ
lâu đã tưởng câu ngâm dứt
Sao
rựng trời mai mãi tựa song. [5]
Thơ
chữ Hán tài bộ như thế, thơ lục bát và song thất lục bát tinh diệu như thế, thế
mà hai tiền bối không để lại cho hậu thế một câu Hàn luật nào!
Riêng
Ôn Như Hầu, ngoài tập Cung Oán Ngâm Khúc, văn chương kỳ cổ, đối trĩ cùng bản dịch
Chinh Phụ Ngâm của Hồng Hà, văn chương thanh tao lưu lợi, còn lưu thế tập thơ
Quốc âm: Ôn Như Hầu Thi Tập mà lời thơ tự nhiên có, khắc hoạch có, cổ kính có,
tao nhã có…
Đó
là nghe truyền, chớ tôi chưa được đọc toàn tập, mà chỉ thấy được đôi bài đôi
câu:
SAI
ĐỆ TỬ
Cam,
chóng ra nơi gốc hải đường
Hái
hoa về để kết làm tràng
Những
cành mới nhánh đừng vin nặng
Mấy
đóa còn non chớ bẻ quàng
Trở
lại tây hiên tìm liễng xạ
Rồi
sang đông viện lấy bình hương
Mà
về cho chóng đừng thơ thẩn
Kẻo
lại rằng chưa dặn kỹ càng.
ĐÊM
NGHE ẾCH KÊU
Man
mác cảnh đâu ngoài vạn dặm
Bâng
khuâng sự những mấy trăm năm.
NHÂN
THẾ
Trú dạ mênh mông thuyền hạo kiếp
Cổ kim man mác võng huyền cơ.
CANH
NĂM
Dế
gọi người nằm thiên cổ dậy
Sương
trùm cảnh đứng tứ canh đi.
Trong
Văn Đàn Bảo Giám tái bản năm 1968 và trong sách chép Phép Làm Thơ của Diên
Hương có lục một trong số thơ Cung Oán ghi là của Ôn Như Hầu. Song tôi không
dám tin là đúng vì chỉ được nghe truyền Ôn Như Hầu có Cung Oán Ngâm khúc mà
chưa từng nghe nói có Cung Oán Thi. [6]
Chỉ
xem một ít câu thượng dẫn cũng đủ thấy rằng thơ Hàn luật của Ôn Như Hầu cũng
trác luyện như văn song thất lục bát.
Nhưng
sở trường nhiều thể vận văn như Ôn Như Hầu xưa nay rất hiếm.
Cho
nên thơ Hàn luật còn truyền lại chỉ chừng trên dưới mươi nghìn bài, và những
nhà thơ Đường luật vừa giỏi thơ chữ Hán vừa giỏi thơ Quốc âm phỏng chừng trăm
nhà trở lên, nghìn nhà trở xuống.
Song
con nhà nghèo, được chừng nấy tài sản kể cũng đã quí lắm vậy.
[1] Tứ bất nhập cách:
Khinh trọng bất đẳng, dụng ý thái quá, chỉ sự bất thiệt, dụng ý thiêng khô.
Ngũ kỵ: Cách nhược, tự tục, tài
phù, lý đoản, ý tạp.
Bát
bệnh: Bình đầu, thượng vỹ, phong yêu, hạc tấc, đại vận, tiểu vận, chánh nựu,
bàn nựu.
Đó là những điều mà kẻ
vào làng thơ Hàn luật phải biết để tránh. Còn nhiều khác nữa. Trong tập Thi
Pháp Nhập Môn của Mân Đàm Du và Nghệ Tử Lục có nói tường tận. Các sách dạy làm
thơ xuất bản lâu nay cũng có nói đại lược. Nên ở đây chỉ xin nhắc qua.
Ngoài quyển thi pháp
nhập môn còn một quyển nữa là Cựu Thi lược luận của Lương Xuân Phương. Xem kỹ
hai quyển này thì nắm vững then chốt của luật thi.
[2] Ở chương 48, 49 nói
về thơ Xuân thơ Đông có trích dẫn nhiều thơ của Thái Thuận.
[3] Có người đọc là: Khô
cốt hữu duên lưu giản tịch.
[4] Có chỗ chép là: Dâm
thư do thắng vị hoa vương (vong)
[5] Thác lời Tú Uyên nhớ
Giáng Kiều.
[6] Đã nói ở chương 7 về
Cung Oán thi.