Ông
Nguyễn Hữu Phương là một danh nhân tỉnh Bình Thuận, triều Tự Đức. Học hay chữ nổi
tiếng nhưng thi mãi cứ hỏng trường tư.
|
Lúc
trẻ, ông có bài thơ vịnh:
CÔ
GÁI CỞI XIÊM LỘI SÔNG LƯƠNG
Đò
vắng e mưa trễ bước đường
Cởi
xiêm thẹn gái lội sông Lương
Khuôn
xanh un đúc ba phân bạch
Làn
biếc tuôn xao một điểm hường
Che
vóc ngọc ngà mây kết nón
Soi
màu son phấn nước làm gương
Đục
trong đâu cũng mười hai bến
Lỡ
lối thuyền quyên cũng khá thương.
Thầy
học chê câu kết trệ và rất lo cho hậu vận của người học trò thân yêu. Sau quả
như lời thầy đoán: Công danh lận đân, suốt đời chịu cảnh hàn nho.
Kẻ
thức giả gọi câu:
Đục
trong đâu cũng mười hai bến
Lỡi
lối thuyền quyên cũng khá thương.
là câu thi sấm.
Thi
sấm từ xưa đều có truyền.
Như
thơ Vịnh Pháo Tre của Nguyễn Hữu Chỉnh:
Xát
không vốn những cậy tay người
Khéo
léo bao nhiêu đốt cũng rời
Kêu
lắm lại càng tan xác lắm
Cũng
mang một tiếng ở trên đời.
Bài
thơ làm lúc còn cắp sách đến trường. Thế mà thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Hữu
Chỉnh đều gói trọn trong bốn câu khẩu chiếm. Nhất là câu thứ ba ứng một cách rõ
rệt vào việc bỏ Nghệ An ra Thăng Long giúp vua Chiêu Thống, quyền thế một tay,
để rồi bị tướng Tây Sơn là Vũ Văn Nhậm đem binh ra bắt xé xác!
Cụ
Trương Đăng Quế lúc còn học trò có câu thơ vịnh cảnh bóp vú bị gái chửi:
Tay
ngọc nâng niu đôi chúa trẻ
Tiếng
vàng sang sảng chín tầng cao.
Sau
cụ thi đỗ làm quan phò vua Thiệu Trị và Tự Đức là hai vua tuổi còn trẻ lúc lên
ngôi, và chức vị lên đến tột đỉnh.
Năm
Giáp Tý (1864) cụ Nguyễn Khuyến cùng bạn ra Hà Nội thi. Đi đường gặp một thanh
niên chọc gái bị chửi dữ dội. Các bạn thách cụ làm thơ. Nhân trong câu chửi có
tiếng “mả phát” cụ liền ứng khẩu đọc:
Con
cháu nâng niu đôi nấm đất
Ông
cha lừng lẫy bốn phương trời.
Khoa
ấy cụ đậu giải nguyên, tiếng tăm lừng lẫy.
Trong
Tùy Viên Thi Thoại có chép nhiều việc chứng minh sự linh nghiệm của thi sấm:
+
Vua Hy Tông đời Tống vịnh cỏ Kim Chi:
Định tri Kim đế lai vi chủ
Bất đãi xuân phong tiện phát sinh.
Nghĩa
là:
Những
hay Kim đế sang làm chủ
Chẳng
đợi xuân phong sớm nảy chồi.
Niên
hiệu Tịnh Khương, quân Kim kéo vào đánh Tống, vua Hy Tông cùng Thái Tử bị bắt.
Nước Tống phải đem của chuộc về, và vua Tống phải tôn vua Kim làm bác.
+
Chúa nước Hậu Thục là Mạnh Xưởng đề bùa đào niêm nơi tẩm cung:
Tân niên nạp du khánh
Giai tiết triệu trường xuân.
Nghĩa
là:
Năm
mới thâu phước sót
Tiếc
lành gây xuân dài.
Sau
đó vua Tống Thái Tổ diệt nước Thục, cử Lữ Dư Khánh đóng binh coi việc trị an tại
đô thành cũ.
+
Vương Dương Minh bắt được Trần Dinh tại núi Lư Sơn, khắc nơi vách đá năm chữ:
Gia tĩnh ngả bang quốc.
Nghĩa
là “Yên đẹp cõi nước ta”. Không bao lâu, vua Minh Thế Tổ băng hà, vua Thế Tông
lên ngôi lấy niên hiệu là Gia Tĩnh.
+
Trong thành Châu Dương có núi Khương Sơn. Đời Khang Hy ông Châu Trúc Sá lên
chơi, có câu:
Hữu ước giang xuân đáo.
Nghĩa
là “Vì có ước nên theo sông xuân đến”. Sau đó quan phương bá họ Giang tên Xuân
làm chủ núi Khương Sơn, tu trấp lại rất thịnh.
Rõ
là những chuyện kỳ!
Và
những câu thơ trên, Hán tự cũng như Quốc âm, đều là những câu thơ thần. Không
muốn tin cũng không được.
Vì
thơ thường linh ứng như thế, nên cổ nhân rất kỵ làm thơ trệ. Lại có lắm người
mong hậu vận được tốt lành theo ý muốn, hay làm những câu thơ vui tươi, những
câu thơ có khẩu khí phong lưu phú quí. Đó là do quá tin ở thi sấm quên rằng sự ứng
nghiệm chỉ có, khi nào người làm thơ vô tâm. Và người đời chỉ thấy sự ứng nghiệm
sau khi sự việc đã xảy ra rồi. Chớ đoán thi cũng như đoán sấm trạng Trình,
không mấy khi trúng đích xác. Thêm nữa, đâu có phải chỉ những câu thơ trệ là điềm
báo trước những mối họa sắp đến. Lắm câu thơ rất đẹp rất vui ứng vào những việc
không mấy vui mấy đẹp, như thơ của vua Tống của chúa Thục thượng dẫn. Cũng có lắm
câu thơ rất trệ, nhưng rốt cuộc không thấy ứng nghiệm. Như câu:
Giang
hồ chí đã vương mây khói
Khuya
ngọn đèn khuya lạnh thấm xương.
Đó
là câu thứ ba thứ tư trong bài Thanh Siêu của Lưu Kỳ Linh làm trên một chiếc
tròng ngao thả theo dòng sông Hương một đêm hè năm 1952.
Gặp
tôi tại Nha Trang (1955), Lưu quân đọc cho tôi nghe.
Nhận
thấy câu thơ trệ và sức khỏe của Lưu quân lại không được dồi dào, tôi có ý sợ
là triệu bất tường, nhưng không dám nói ra. Sau khi xa cách nhau, những năm vắng
tin tức, lòng không khỏi thắc thỏm lo âu… Song từ bấy đến nay, ơn trời, câu thơ
không có ảnh hưởng gì đến tác giả. tôi mừng rằng câu thơ kia không phải là thơ
sấm.
Thơ
sấm xuất ư tự nhiên. Không nên quan tâm đến những câu thơ trệ, cũng không nên cố
ý làm cho thông. Nếu quan tâm cố ý thì sẽ vấp phải trường hợp anh Liễu Miện:
Liễu
Miện là một anh học trò thi. Anh rất hay kiêng cữ, cữ nhất là chữ LẠC. Lạc là rụng
là hỏng. Vì chữ Lạc là vui đồng âm với chữ Lạc là rụng, nên anh ta cũng cữ
luôn. Để thay vào chữ cữ anh ta dùng chữ Khương là yên vui. Chẳng những anh ta
cữ mà thôi, những đứa ở trong nhà cũng phải cữ nốt.
Có
một khoa, thi xong về nhà, Liễu Miện sai tiểu đồng ra xem bảng. Xem không thấy
tên thầy, tiểu đồng về thưa:
-
Tú tài khương liễu. [1]
Quên
lững rằng chữ Khương thế cho chữ Lạc, Liễu Miện mừng quá hối người nhà mổ bò mổ
lợn ăn mừng! Sau mới bật ngửa! [2]
[1] Đáng lẽ nói “Tú tài lạc
liễu” nghĩa là hỏng tú tài rồi. Vì cữ chữ LẠC, nên nói KHƯƠNG LIỄU. Liễu là
rồi, đồng âm với họ Liễu, nên nghe câu “Tú tài khương liễu” tưởng là ông Liễu
đậu tú tài. Do đó người làm văn thường dùng chữ Khương liễu thay chữ lạc đệ là
thi hỏng.
[2] Xem thêm chương 55
nói về cụ Tam Xuyên.