Nguyễn
Trãi,
|
Lê
Thánh Tông,
Nguyễn
Bỉnh Khiêm,
Là
ba đại biểu của làng thơ Quốc âm thời Lê -
Mạc.
Tác
phẩm của Lê Thánh Tông và Nguyễn Bỉnh Khiêm đã được phổ biến sâu rộng.
Còn
về Nguyễn Trãi thì phần đông chỉ biết những bài Gia Huấn Ca và bài Tự Thán “Chiếc
thuyền lơ lững bên sông” là những bài làm theo thể lục bát và song thất lục
bát. Tập thơ Hàn luật trong bộ Ức Trai Di Tập [1]
chỉ có một số nhà khảo cổ được xem!
Nguyễn
Trãi là một đại gia văn chương. Nhưng cũng như Triệu Nghiêu Phu đời Tống, cụ
làm thơ không phải vì say đắm vị thơ, mà làm thơ để tải đạo, để ngôn chí, chí của
một nhà Nho nhiệt thành với dân với nước, một nhà nho luôn luôn theo đúng lời dạy
của thánh hiền xưa.
Thơ
chữ Hán của cụ được các nhà viết sách ca tụng. Nguyễn Dữ đời Lê Hồng Đức, tác
giả Truyền Kỳ Mạn Lục, khen là “đầy lời trung ái có thể chen vào môn hộ của Đỗ
Thiếu Lăng”.
Thơ
Quốc âm của cụ không sánh kịp thơ chữ Hán. Cách dụng tự, luyện cú, hòa điệu…
chưa được thuần thục:
Đạo
đức hiền lành được mọi phương
Tự
nhiên cả muốn chúng suy nhường
Lợi
tham hết lấy nhiều thì cạnh
Nghĩa
phải đem cho ít chẳng phương
Sự
thế sá phòng khi được mất
Lòng
người tua đoán thuở mừng thương
Chẳng
nhàn xưa chép rầy truyền bảo
Khiến
chớ cho qua một đạo thường.
- Con cờ quẩy rượu đầy bầu
Đòi nước non chơi quản đâu
Đạp áng mây ôm bó củi
Ngồi bên suối gác cần câu
Giang
san mặt thấy nên quen thuộc
Danh
lợi lòng nào ước chuốc cầu
Vương
Chất tình cờ ta ướm hỏi
Lèo phơi phới thấy tiên đâu?
Có
nhiều câu đọc nghe ngượng ngập lạ tai:
-
Tranh treo vách nài chi bức
Đình thưởng sen năng có gian.
-
Thờ cha lấy thảo làm phép
Rập chúa hằng ngay mấy cần.
-
Đông về tiết muộn mai nhiều bạc
Thu nẻo tin truyền cúc có vàng.
-
Xa hoa lơ lãng nhiều hay hết
Hà tiện đâu đang ít hãy còn.
vân
vân…
Về
hình thức thì thơ Ức Trai còn thật thà chất phác. Về nội dung thì đượm mùi giáo
huấn, tình lợt vị khô. Kẻ yêu thơ đọc xong Quốc Âm Thi Tập, không mấy thỏa mãn
về bên tâm, mà bên trí cũng không mấy thỏa mãn, bởi ngoài những tư tưởng phổ
thông về ngũ luân ngũ thường, về tu nhân xử thế…, không tìm thấy những tư tưởng
mới lạ, cao sâu. [2]
Thơ
trong Quốc Am Thi Tập phần nhiều là thế, chớ không phải tất cả đều thế. Cũng có
lắm câu thanh nhã ý vị:
-
Hương cách gác vân thu lạnh lạnh,
Thuyền
kề bãi tuyết nguyệt chênh chênh.
-
Bến liễu mới dời thuyền đón nguyệt
Gác
vân còn chứa bút đeo hương.
-
Lòng một tấc son còn nhớ chúa
Tóc
hai phần bạc bởi thương thu.
-
Sách cũ ngày tìm người hữu đạo
Trì
thanh đêm quyến nguyệt vô tâm.
Văn
luyện, vị thanh, thú nhã. Hình thức lẫn nội dung giàu sang không kém những vần
giai tác thời thi ca toàn thịnh là thời Lê mạt Nguyễn sơ sau này.
Thơ
Ức Trai gây nhiều ảnh hưởng đến các thi gia kế hậu.
Như
trong Ức Trai thi tập có bài Thuật Hoài:
Mấy
phen lần bước dặm thanh vân
Đeo
lợi làm chi luống nhục thân
Nhớ
chúa lòng còn son một tấc
Âu
thời tóc đã bạc mười phân
Trì
thanh cá lội in vầng nguyệt
Cây
tĩnh chim về rợp bóng xuân
Dầu
phải dầu chăng mặc thế
Đắp
tai biếng mảng sự vân vân.
Thì
trong bài “Lời mẹ Vương Lăng tiễn sứ thần” của Lê Thánh Tông, cũng có câu:
Nhớ
Hán lòng còn son một tấm
Thương
Lăng đầu đã bạc mười phân. [3]
Trong
Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập, bài Vịnh Trăng có câu:
Hồ
thuở thuyền chơi lòng Phạm Lãi
Đài
khi câu rủ thú Nghiêm Lăng.
Cách
điệu không khác câu của Ức Trai:
Đầu
tiếc đội mòn khăn Đỗ Phủ
Tay
còn lựa hái cúc Uyên Minh.
Trong
Lê Triều Ngự Chế Quốc Âm Thi, bài Vịnh Bồ Đề Thắng Cảnh có câu:
Cửa
trúc màng xem mai điểm tuyết
Thềm
hoa nhác thấy nguyệt ngang đầu.
Phong
thú phảng phất câu “Bến liễu… Gác vân…” thượng dẫn, hoặc câu:
Đêm
thanh nguyệt hiện ngoài hiên trúc
Ngày
vắng chim kêu cuối khóm hoa.
vân
vân…
Ảnh
hưởng của Ức Trai thấy rõ rệt nhất ở trong tập Bạch Vân Quốc Ngữ Thi của Nguyễn
Bỉnh Khiêm:
Trượng
phu non vắng là tri kỷ
Tiên
khách nguồn êm ấy cố nhân.
(Ức
Trai)
Trăng
trong gió mát là tương thức
Nước
biếc non xanh ấy cố tri.
(Bạch
Vân)
Rợ
nọ có dai nào có dứt
Cây
kia toan đẵn lại toan đo.
(Ức
Trai)
Vị
nọ có bùi không có ngọt
Sắc
kia chầy thắm lại chầy phai.
(Bạch
Vân)
Nhiều
khi Bạch Vân trùng cả ý lẫn lời của Ức Trai:
Nhà
ngặt bằng ta ai kẻ vì
Khó
khăn phải lụy đến thê nhi
Đắc
thời thân thích chen chân đến
Thất
sở láng giềng ngoảnh mặt đi
Lu
tiện Nhan Uyên tìm tới đỗ
Đường
cùng Nguyễn Tịch khóc làm chi
Thư
song vắng vẻ nhàn vô sự
Tai
chẳng còn nghe tiếng thị phi.
(Ức
Trai)
Vụng
khéo nào ai chẳng có nghề
Khó
khăn phải lụy đến thê nhi
Được
thời thân thích chen chân đến
Thất
thế hương lân ngoảnh mặt đi
Thớt
có tanh tao ruồi tới đỗ
Gan
không mật mỡ kiến bò chi
Đời
nay những trọng người nhiều của
Lặng
đến tay không ai kẻ vì.
(Bạch
Vân)
Ức
Trai Quốc Am Thi Tập và Bạch Vân Quốc Ngữ Thi Tập thật chẳng khác hai anh em
thúc bá ruột. Chẳng những nét mặt có nhiều nét giống nhau, mà tánh tình cũng có
nhiều điểm giống hệt:
Cả
hai đều:
-
Ca tụng thú nhàn, thú nhàn của người ẩn dật chớ không phải cảnh ăn không ngồi rồi
của hạng du lại.
-
Diễn tả niềm ưu ái luôn luôn đầy đặn trong sáng như trăng rằm in nước thu.
-
Chỉ trích nhân tình thế thái, chỉ trích với mục đích dạy dỗ khuyên răn.
Nhưng
xét về mặt văn chương, thì Bạch Vân hơn Ức Trai. Chữ dùng đã luyện, câu đặt
không còn có vẻ trái trấp, điệu gióng đã
uyển chuyển nhịp nhàng:
Một
mai cuốc một cần câu
Thong
thả nào ai vui thú nào
Ta
dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người
khôn người đến chốn lao xao
Thu
ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân
tắm hồ sen hạ tắm ao
Rượu
đến gốc cây ta sẽ nhắp
Nhìn
xem phú quí tựa chiêm bao.
(Bạch
Vân)
Thơ
trong Bạch Vân Quốc Ngữ Thi Tập, phần nhiều đều có giọng nhẹ nhàng trôi chảy
như thế. Trong Ức Trai cũng như trong Hồng Đức Quốc Âm, thỉnh thoảng cũng có
bài có câu tương tợ, song không được nhiều và được đều như trong Bạch Vân. Điều
này chứng tỏ rằng từ Nguyễn Trãi đến Nguyễn Bỉnh Khiêm, thơ Hàn luật đã tiến được
một bước vừa dài, vừa vững. [4]
Và
đọc thơ Bạch Vân, tôi có cảm giác ăn cơm gạo lúa nhe giã trắng với rau muống luộc
chấm tương đỗ nành: thanh đạm mà ngon. Đọc thơ Ức Trai chẳng khác ăn cơm gạo lứt
với muối mè: phải nhai cho kỹ và nhai thong thả mới thấy vị ngọt và ráng ăn lâu
ngày mới thấy ngon.
Những
người quen dùng cao lương mỹ vị chắc không mấy thích.
[1] Sau khi Nguyễn Trãi
bị án vườn Lệ Chi, văn nghiệp bị hủy hết. Lê Thánh Tông lên ngôi mới rửa oan
cho cụ và truyền sưu tầm thơ văn Ức Trai trở lại. Trần Khắc Kiệm mất 13 năm mới
thu lại được một phần lớn. Nhưng rồi chiến tranh làm thất lạc hết. Đến thế kỷ
thứ XIX Dương Bá Cung mới thu nhặt được một ít, soạn thành bộ Ức Trai Di Tập
xuất bản năm 1868.
[2] Xem thêm chương 42 ở
sau, nói về thơ Lục Ngôn.
[3] Xem trọn bài ở chương
5, nói về thơ Lê Thánh Tông.
[4] Đã nói kỹ trong tập
GIỌNG HÀN THUYÊN nên ở đây chỉ nói đại lược.