Thơ
TRĂNG tôi được đọc nhiều hơn thơ Gió.
|
Tương
An Quận Vương có bài VỊNH TRĂNG NON:
Khen
ai cắc cớ bấm trời Tây
Tỉnh
giấc Hằng Nga dậy vẽ mày.
Một
mảnh lênh đênh chìm đáy nước,
Nửa
vành lững thững giợn chân mây.
Cá
ngờ câu thả tơi bời lội,
Chim
ngỡ cung trương dớn dác bay.
Khuyên
chúng chớ chê rằng chích mác,
Một
mai tròn vạnh bốn phương hay.
Cặp
trạng luận chịu ảnh hưởng bài thơ cổ:
Sơ tam tứ nguyệt mông lung
Bất thị kim câu bất thị cung.
Thùy bã kim bôi phân lưỡng đoạn
Bán trầm thủy để bán phù không
Nghĩa
là:
Mồng
ba mồng bốn nguyệt cong cong
Chẳng
phải vòng câu chẳng phải cung.
Cắc
cớ chén vàng ai xẻ nửa
Nửa
chìm đáy nước nửa trên không.
Nói
“kim bôi phân lưỡng đoạn” thì rõ là trăng non. Vì chén vàng xẻ làm hai thì miệng
chén mỗi bên chỉ còn có nửa vành lóng lánh. Nhưng khi Nguyễn Du mượn ý đem vào
Kiều:
Vừng
trăng ai xẻ làm đôi
Nửa
in gối chiếc nửa soi dặm trường.
thì
không còn là trăng non nữa, mà là trăng thượng huyền, lại nửa cân phân, một nửa
anh đem đi, một nửa chị giữ lại. Đến khi vào tay Hàn Mặc Tử, thì nửa trăng lại
trở thành trăng hạ huyền: [1]
Hôm
nay có một nửa trăng thôi
Một
nửa trăng ai cắn vỡ rồi !
Ta
nhớ mình xa thương đứt ruột
Gió
làm nên tội buổi chia phôi !
mà
thay đổi sắc thái hình dung. Trăng của cổ nhân thanh thanh như nửa vành chén và
bình tĩnh thản nhiên. Trăng của Tương An sắc bén như chân mày của giai nhân mới
kẻ, và xao xuyến chòng chành như chiếc thuyền trên sóng. Trăng của Nguyễn Du
tuy có một nửa nhưng lại rất thăng bằng, tuy lẻ đôi nhưng lại có bạn, nửa thì bạn
cùng người nương gối chiếc, nửa thì bạn cùng người rủi đường trường, lạnh lẽo
mà êm đềm, lẻ loi mà ấm cúng. Đến trăng Hàn Mặc Tử thì thật là đau thương! Cầm
dao mà xẻ mạnh một đường cho rời làm hai mảnh thì chỉ rát nếu lưỡi dao thật
hay. Còn lấy răng mà cắn cho vỡ đi một nửa thì người cắn đã khổ sở mà vật bị cắn
chịu đau đớn nhức nhối biết bao nhiêu! Và nửa vỡ đã không còn, mà nửa còn cũng
không được trơn liền như vầng trăng xẻ nửa!
Trăng
của trời xưa nay chỉ có một. Nhưng trăng của thi nhân thì mỗi người ít ra cũng
có một vầng trăng riêng.
Chúng
ta hãy ngắm vầng trăng của Hồ Xuân Hương:
Một
trái trăng thu chín mõm mòm
Nẩy
vầng quế đỏ đỏ lòm lom.
Giữa
in chiếc bách khuôn còn méo,
Ngoài
khép đôi khung cánh vẫn khòm.
Ghét
mặt kẻ trần đua xói móc,
Ngứa
gan thằng Cuội đứng lom khom.
Hỡi
người bẻ quế kìa ai đó ?
Đó
có Hằng Nga ghé mắt dòm.
Trăng
đây là trăng tròn, và vừng trăng được trình bày một cách vừa chân thật vừa tỉ mỉ.
Những người giàu tưởng tượng nhìn vào thấy biết bao hiện tượng vui mắt nổi trên
mỗi câu thơ.
Nhưng
những kẻ tu hành sợ bị đọa thì hãy nhìn sang vầng trăng của một nhà thơ khuyết
danh đời Lê:
Máy
nhiệm xoay vần vốn tự nhiên
Này
thu này nguyệt đối thanh niên
Băng
cao dầy dẫy doành ngân chảy
Sáng
tỏ làu làu bóng thỏ in.
Đòi
chốn lâu đài gương vẽ khắp
Một
bầu thế giới ngọc đông nên
Chị
Hằng sánh với vầng hồng ấy
Biết
mấy xuân thu biết mấy nghìn…
Văn
chương cổ nhã, nói lên được vẻ trong sáng của trăng thu. Nhưng đó là vầng trăng
của đồng bằng, chúng ta thường thấy. Hãy thưởng thức vầng trăng trên non đã mọc
trong Truyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn Dữ:
Ẩn ẩn lâm sao quýnh
Liên không hạo khí phù
Hàm sơn ngân cảnh khuyết
Cách vụ ngọc bàn thâu.
Ảnh lạc tùng quan tịch
Lương hồi túc viện u
Thanh quanh tùy xứ hữu
Hà tất thượng Nam lâu.
Nghĩa
là:
Ám
ám rừng cây thẳm
Hừng
hừng nổi giữa không
Ngậm
cúi gương vàng khuyết
Xa
mù dĩa ngọc trong
Mát
về im viện trúc
Bóng
rụng tạnh non tùng.
Trong
sáng đòi nơi sẵn
Rõ
là vầng trăng ở ngoài nhân thế, không bợn mảy trân hiêu. Câu trạng cho chúng ta
thưởng thức vẻ đẹp cao khiết. Câu luận cho chúng ta thưởng thức cái thú thanh
u.
Phải
trải lòng sống với trăng mới có thể viết ra những lời trong trẻo đẹp đẽ như hai
bài Trăng Thu và Trăng Núi. Đọc hai bài này có cái thú uống nước suối trong cốc
pha lê dưới bóng cây cổ thọ, nửa buổi sớm mùa hè.
Thú
thiên nhiên vô cùng vô tận. Nhà thơ chỉ sớt vào văn chương được chừng muôn một
là nhiều. Thế mà gián tiếp thưởng thức chúng ta đã thích thú chừng đó huống hồ
trực tiếp đón lấy thiên nhiên.
Trên
đây là Trăng trên Núi. Hãy thưởng thức cùng cụ DƯƠNG KHUÊ quang cảnh và phong
thú NÚI CÙNG TRĂNG:
Cao
sơn nhất phiến nguyệt
Đã
chơi trăng phải cho biết tình trăng.
Sơn
chi thọ, nguyệt chi hằng,
Sơn
có nguyệt càng thêm cảnh sắc.
Nguyệt
quải hàn sơn thi bán bức
Trăng
chưa già núi hãy còn non
Núi
chưa khuyết trăng vẫn tròn với núi.
Rượu
một bầu thơ ngâm một túi,
Góp
gió trăng làm bạn với non sông.
Núi
kia tạc để chữ đồng,
Trăng
kia nhớ mặt anh hùng này chăng?
Xinh
thay kìa núi nọ trăng.
Và
đây là trăng với nước: [4]
Xinh
thay thiết thu thiên quang cảnh
Khi
lạc hà dãi bóng tà dương.
Một
con thuyền cạy bát bên giang,
Thu
thủy cọng tràng thiên nhất sắc.
Vầng
ngọc thỏ in sông vằng vặc,
Giữa
giang tâm bóng lộn mấy tầng.
Trên
một trăng, dưới một trăng,
Xui
lòng kẻ hữu tình ngao ngán.
Thùy
bã kim bôi phân lưỡng đoạn,
Vầng
trăng ai xẻ làm hai
Nửa
in dưới nước nửa cài trên không.
Nước
trăng thăm thẳm một dòng.
Khách
ngắm cảnh Trăng với Nước cũng như Trăng với Núi, lòng rộn rực chớ không thảnh
thơ như khách nhìn trăng trên núi. Cho nên hồn thơ không thanh tịnh, và tứ thơ
bàng bạc ở ngoài cảnh sắc chớ không đi sâu vào cảnh sắc để thấm dầm chân thú
chân vị của thiên nhiên. Vì vậy đọc hai bài ca trù, lòng người đọc thấy vui vui
thích thích, chớ không thú vị như đọc bài Sơn Nguyệt trong Truyền Kỳ.
Nhưng,
trừ Hàn Mặc Tử ra, tất cả tác giả các bái thơ ca thượng dẫn đều là đối tượng của
trăng, tức là trăng còn là đối tượng của người thưởng thức.
Nói
một cách khác là tất cả chỉ yêu thích, chỉ trầm trồ khen ngợi trăng, chớ không
lấy trăng làm nguồn an ủi, không tìm niềm vui sống nơi trăng.
Riêng
Hàn Mặc Tử khi chưa mang bệnh nan y thì yêu trăng như yêu một người bạn yêu một
người tình, đến khi lâm bệnh thì lấy trăng làm quê hương để gởi gấm tâm sự, hòa
tâm hồn cùng trăng để sống một đời sống tươi đẹp yên vui. Ai đã đọc thơ Hàn Mặc
Tử chắc thấy lời nói của tôi không chút ngoa [6].
Chỉ xét kỹ bài thơ “Một nửa Trăng” thượng dẫn, chúng ta cũng thấy rằng vầng
trăng trong thơ không còn là đối tượng với tác giả, mà là hình ảnh tâm hồn của
tác giả [7].
Vầng trăng mang nặng niềm đau đớn nhớ thương, đau đớn nhớ thương một cách ray rứt
một cách thiết tha, của Hàn Mặc Tử. Nghĩa là niềm nhớ thương tha thiết nỗi đau
đớn ray rứt của Hàn Mặc Tử do cảnh chia phôi tạo nên, đã thể hiện nơi vầng
trăng đương nguyên lành bị cắn vỡ mất một nửa.
Đó
là vì cuộc đời của mỗi tác giả mỗi khác, tâm rạng của mỗi tác giả mỗi khác, cho
nên hình dung và sắc thái của mỗi vầng trăng cũng khác hẳn nhau.
Vầng
trăng từ nghìn muôn xưa vẫn có một, nhưng sắc tướng nghìn sai muôn khác. Những
hiện tượng nghìn sai muôn khác do tâm người mà ra, tức do duyên sanh.
Mặt
trăng là TÁNH.
Những
ảnh tượng hình thái các nhà thơ diễn tả là TƯỚNG.
TÁNH
bất biến.
TƯỚNG
tùy duyên.
Cho
nên những bài thơ nói về trăng dù hay đến đâu cũng chỉ là ngón tay chỉ trăng mà
thôi, chớ không phải trăng.
Muốn
rõ chân tướng của trăng như sao, chúng ta cần phải thể nghiệm.
[1] Thượng huyền: từ
khuyết đến tròn. Hạ huyền: từ tròn đến khuyết.
[2] Dũ Lượng đời Tấn là
một bậc cao nhã rất ưa trăng. Khi làm Đô Đốc Kinh Châu, ông dựng một ngôi lầu
cao ở phí Nam tư dinh. Những đêm trong mát, ông lên lầu ngồi thưởng trăng suốt
đêm.
[3] Trăng treo núi lạnh
thơ nửa bức, non ngậm trăng sáng rượu nghìn chung.
[4] Thơ khuyết danh.
[5] Thơ cũ đổi hai chữ
sau.
[6] Trong tập THƠ HÀN MẶC
TỬ đã xuất bản, có nhiều bài về trăng.
[7] Trong ĐÔI NÉT VỀ HÀN
MẶC TỬ có bài nói về Trăng và HMT nên ở
đây chỉ nói sơ.