NGÔ
KHOANG luận thi rằng:
|
-
Xem thơ thấy được tánh tình. Tánh tình biển ải thì lời tháo, khoan dũ thì lời
bình, thanh tịnh thì lời nhã, sơ khoáng thì lời dật, hùng vĩ thì lời tráng, uẩn
tạ thì lời uyển. Tánh tình được hàm dưỡng thì phát ra khí, hiện ra lời. Đó là
nguồn gốc của thơ vậy [1].
Xưa
nay đều lấy làm khuôn thước lúc xem thơ.
Về
thời vua Lê chúa Trịnh, có bài thơ thất luật:
MUA
QUAN TÀI
Ba
vua bốn chúa bảy thằng con
Răng
chửa lung lay dái chửa mòn
Nhân
vật thời giờ sanh cũng uổng
Quan
tài sẵn đó chết thời chôn
Giang
hồ lang miếu trời đôi ngả?
Bị
gậy cân đai đất một hòn
Cũng
muốn sống thêm dăm tuổi nữa
Sợ
ông Bành Tổ tống đồng môn.
Không
biết tác giả là ai [2].
Văn chương ấy, khẩu khí ấy phải là kẻ tài lớn cốt ngạo, thân không bị trói buộc,
ấy là người “dọc ngang nào biết trên đầu có ai”. Đọc thơ, lòng sướng khoái như
đứng trên núi cao nhìn xuống ruộng thấp, trong người dường có hùng khí un xông.
Trong
sách VĂN ĐÀN BẢO GIÁM thấy có nhiều bài thơ ghi là của NGUYỄN HỮU CHỈNH. Như:
Tóc
chen hai thứ chửa danh chi
Thân
hỡi là thân thì hỡi thì!
Chửa
trả chửa đền ơn đệ tử
Thêm
ngừng thêm tủi chí nam nhi.
Kẻ
yêu nên ít bề cao hạ
Người
ghét càng nhiều tiếng thị phi
Tay
bé khôn bưng vừa miệng thế
Giãi
lòng ngay thảo cậy thiên tri.
II
Cửa
sổ buồn xem ngựa trắng qua
Vừa
khôn thời lại thấy vừa già
Trước
đã cậy lòng con cái
Sau
còn nhờ đức mẹ cha
Giàu
ở làng sang ở nước
No
ra bụt đói ra ma
Sắc
không chữ ấy âu vàng thếp
Nghĩ
lại thời là bẵng cái hoa.
Vân
vân…
Tác
giả những bài ấy, ngờ rằng không phải Nguyễn Hữu Chỉnh. Chỉnh vốn kiêu ngạo phản
phúc, có thể sánh với Trương Nguyên đời Tống. Trương vịnh TUYẾT có câu:
Chiến bãi ngọc long tam bách trượng
Bại lân tàn giáp mãn thiên phi.
Nghĩa
là:
Đánh
xong rồng ngọc ba trăm trượng
Vảy
nát vây tan bay mịt trời.
Và
vịnh CHIM ƯNG có câu:
Hữu tâm đãi tróc nguyệt trung thố
Cánh hướng bạch vân cao xứ phi.
Nghĩa là:
Cung
nguyệt hăm he lòng bắt thỏ
Ngắm
từng mây trắng vút mình bay.
đều
đeo khí kiêu ngạo. Nhạc Phi xem thơ, biết là người bất lương, không dùng. Sau
Trương theo giặc Nguyên quấy rối nhà Tống, làm cho người đồng chủng bị hao nhiều
máu xương.
Tâm
tánh Nguyễn Hữu Chỉnh - con người đã thốt ra câu “Bắc Hà duy có một mình Chỉnh,
Chỉnh đi thì trong nước trống”- không khác Trương Nguyên, thì lẽ đâu thơ lại
bình dị và trung hậu như thế. Thường thường những tay thợ thơ non vụng, mới sản
xuất những bài vận ngữ mà lời không đi với lòng. Còn những nhà thơ thiện nghệ,
thì bút pháp dính liền với tư tưởng, hễ lời ra là ý theo. Dù cố ý che đậy giấu
giếm đến bậc nào, cũng không thể qua mắt hàng thức giả. Nguyễn Hữu Chỉnh vốn có
tài thơ về Quốc âm, có tài xuất khẩu thành thi từ lúc nhỏ, thì thơ và người
không thể còn là hai.
Thêm
nữa Chỉnh là một tay gian hùng chỉ kiêng nể một mình Nguyễn Huệ, thì còn sợ ai
mà phải núp mình dưới bóng văn chương, phải mượn văn chương để dối lòng, dối đời?
Kìa
như Quận Hẻo NGUYỄN HỮU CẦU không phục vua Lê chúa Trịnh, nổi lên chiếm cứ miền
Đông Bắc Hà, lấy Đồ Sơn làm căn cứ quân sự , tự xưng là Đông Đạo Thống Quốc Bảo
Dân Đại Tướng quân chống cùng triều đình mười năm trời, thanh thế lừng lẫy. Đến
năm Cảnh Hưng thứ mười hai (1751) bị Phạm Đình Trọng bắt được. Trong lúc ngồi
trong ngục Quận Hẻo có bài:
CHIM
LỒNG
Nhất
lung thiên địa tàn thân tiểu
Vạn
lý phong vân cử mục tần [3]
Hỏi
sao sao lụy cơ trần?
Bận
tài bay nhảy xót thân tang bồng
Nào
khi vỗ cánh rỉa lông
Hót
câu thiên túng trong vòng lao lung [4]
Chim
oanh nọ vẫy vùng giạu Bắc
Đàn
loan kia túc tắc cành Nam
Mặc
bay đông ngữ tây đàm [5]
Chờ
khi phong tiện dứt dàm vân lung [6]
Bay
thẳng cánh muôn trùng tiêu hán [7]
Phá
vòng vây bạn với kim ô.
Giang
san khách diệc tri hồ?
Tản
Đà tiên sinh khen:
-
Lời văn khẳng khái hiên ngang, tự có nam nhi khí phách vậy.
Và
lời văn hiên ngang khẳng khái nầy đối chiếu cùng cuộc đời chọc trời quấy nước
kia, thì rõ là hình với bóng.
Những
câu “văn là người”, “xem văn thấy
được tánh tình” là những câu danh ngôn của muôn thuở.
5.
Thơ
vua Lê Thánh Tông được nhiều người khen là có khí tượng đế vương.
|
Phê
bình bài THẰNG BỒ NHÌN, Tản Đà tiên sinh khen câu:
Xét
soi trước mặt đôi vầng ngọc
Vùng
vẫy trên tay một lá cờ.
Tôi
vốn không ưa loại thơ “khẩu khí” ấy. Nghĩ rằng đã ngồi trên ngôi báu, ai chẳng
biết là vua, hà tất phải lấy văn chương lòe thiên hạ! Thêm nữa muốn nêu cao phẩm
giá, sao lại trở hạ mình làm “thằng bồ nhìn”, làm “thằng mõ”, làm “con cóc”,
làm “cây chổi”, vân vân… Gởi thân phận mình, giởi tâm sự mình vào những vật thấp
hèn là sự cực chẳng đã. Như gặp lúc bị ông Hương Hiệu, lãnh tụ đảng Cần Vương
Quảng Nam, bắt tội, ông tú Quì phải tạm nương mình vào con dế duỗi, để giải
nguy. Bị người Tàu khinh khi người nước ta mềm yếu như bèo, trạng Giáp Hải phải
vẽ vời thân bèo cho thành cao quí… Đó là tùng quyền khi ngộ biến, chớ văn chương
nào phải chỗ để khoe mình!
Nói
thế không phải là bảo thơ vua Lê Thánh Tông tuyệt nhiên không có bài khả ái.
Như:
LỜI
MẸ VƯƠNG LĂNG TIỄN SỨ THẦN
Đường
mai đằng đẵng ngựa dời chân
Nghĩa
mẹ con nầy gởi sứ quân.
Nhớ
Hán lòng còn son một tấm
Thương
Lăng tóc đã bạc mười phân
Chăm
bề trung hiếu không hai vẹn
Gặp
hội công danh dễ mấy lần
Canh
cánh mong con tròn nghĩa cả
Lá
vàng thân mụ sá chi thân [8]
ĐỀ
MIẾU NAM XƯƠNG LIỆT NỮ
Nghi
ngút đầu ghềnh tỏa khói hương
Miếu
ai như miếu vợ chàng Trương
Ngọn
đèn dù tắt đừng nghe trẻ
Làn
nước chi cho lụy đến nàng
Chứng
quả có đôi vầng nhật nguyệt
Giải
oan chi mượn cảnh đàn tràng
Qua
đây mới, biết nguồn cơn ấy
Khá
trách chàng Trương nỡ phụ phàng. [9]
Phú
đắc:
Tới
đây mến cảnh mến thầy
Tuy
vui đạo Phật khôn khuây lòng trần.
Gẫm
sự trần duyên cũng nực cười
Tuy
vui đạo Phật chửa khuây người [10]
Gió
thông đưa kệ tan niềm tục
Hồn
bướm mơ tiên lẫn sự đời
Bể
khổ nghìn trùng mong tát cạn
Nguồn
ân muôn trượng dễ khơi vơi[11]
Nào
nào Cực Lạc là đầu tá
Cực
Lạc là đây chín rõ mười.
Văn
chương nhẹ nhàng trôi chảy. Đó là áng thơ hay trong số
thơ hay còn lưu thế.
Nhưng
nói đến thơ vua Lê Thánh Tông lại không thể đem những bài thơ nầy ra làm tiêu
biểu, vì không có mấy [12],
và tuy đẹp đẽ đáng yêu, song để chung cùng các bài thơ hay của các nhà thơ
khác, có thể lầm lẫn lại qua. Những bài có “khẩu khí đế vương” đã nhiều lại được
phổ biến sâu rộng, tuy hương vị không được thanh tiên, song ngoài vua Lê Thánh
Tông ra, không người thứ hai nữa. Bởi vậy, Tề Tuyên Vương dù không ưa Chung Ly
Xuân vẫn không thể truất nàng ra khỏi hoàng cung, mà mỗi khi luận đến Tề hoàng
cung nhân, trước phải nói đến Chung Vô Diệm.
[1] Nguyên văn: thi khả dĩ
khiến nhân chi tánh tình. Tánh tình biển ải giả kỳ từ tháo; khoang dũ giả kỳ từ
bình; thanh tình giả kỳ từ nhã; sơ khoáng giả kỳ từ dật; hùng vĩ giả kỳ từ
tráng; uẩn tạ giả kỳ từ uyển. Hàm dưỡng tánh tình, phát vũ khí, hình vu ngôn,
thử thi chi bổn nguyên giả.
Biển ải: chật hẹp, keo
kiết. Tháo: xốp, bộng.
Khoan dũ: rộng rãi, không câu
chấp. Uyển: dịu dàng.
Sơ khoáng: giản dị khoáng đạt.
Dật: vượt ra ngoài tầm thường
[2] Theo “Giai thoại làng
nho” của Lãng Nhân thì bài nầy của Nguyễn Văn Giai đời Lê Trịnh, làm quan trải
ba đời vua, bốn đời chúa.
[3] Một chiếc lồng làm
trời đất để chứa mình thật nhỏ bé, muôn dặm gió mây thường để mắt nhìn.
[4] Thiên túng: Lòng trời
buông thả. Lao lung: cũi lồng
[5] Đông ngữ tây đàm: nói
chuyện đông nói chuyện tây.
[6] Phong tiện: Thuận cơn
gió. Vân lung: lồng mây.
[7] Tiêu: tầng không khí
quanh mặt trời. Hán: Sông Ngân
[8] Truyền
rằng trong bài nầy vua Lê Thánh Tông làm sáu câu (đề, trạng và kết) còn cặp
luận do quan thám hoa Nguyễn Quí Đức điền. Vua khen hay và ban thưởng hai nén
bạc.
Câu khởi các sách phần nhiều điều chép:
Đình
phô đằng đẵng ngựa dời chân.
Câu chuyển kết nhiều sách chép:
Mệnh
mẹ lá vàng dầu mỏng mảnh
Về
thời nhận kỹ nghĩa quân thần.
Lại có sách chép= Mình
già nầy bao nỡ tiếc
Về thôi khuyên nó nghĩa quân thần
[9] Liệt
nữ tên Vũ Thị Thiết ở đất Nam Xương. Chồng họ Trương phải đi tòng chinh trong
lúc nàng có thai nghén. Lúc chồng về thì đứa con đã biết nói. Chàng Trương bế
con, con bảo: - Ông không phải là cha Đản. Cha Đản cứ đêm mới đến, mẹ Đản đi
cùng đi, mẹ Đản ngồi cùng ngồi, nhưng chả bao giờ bế Đản cả. F
Chàng
Trương nghe con nói, đinh ninh là vợ ngoại tình, đánh đuổi khỏi nhà. Người vợ
buồn tủi nhảy xuống sông Hoàng Giang (Hà
Nam) mà chết.
Một
đêm chàng Trương ngồi dưới ngọn đèn khuya, chợt nghe đứa con reo:
- Cha
Đản đến rồi kìa.vừa reo vừa trỏ bóng chàng in nơi vách.
Thì ra
khi chàng đi vắng, vợ thường chỉ bóng mình nói đùa cùng con mình rằng đó là cha
của nó! Chàng tỉnh ngộ, thương vợ chết oan, bèn lập đàn tràng nơi sông mà tế.
Sau người trong vùng lập miễu thờ.
[10] Câu
hai có nhiều sách chép là:
Sắc
không tuy bụt hãy lòng người.
Nghe có phần
ngượng ngập không xứng với các câu tiếp.
Bài nầy cũng như
bài Lời Mẹ Vương Lăng tiễn sứ thần trong Úc Viên Thi Thoại của Thi Sỹ Đông Hồ
có nói rõ sự tích, nơi mục Mảnh Vá Trên Vai Ao Nàng Thơ. Bạn nào chưa rõ, xin
tìm xem Úc Viên.
[11] Mượn ý
câu: Ái hà phiên xít lãng
Khổ
hải vạn trùng ba
Nghĩa là: Sông ân mòi cuộn cuộn
Bể khổ sóng trùng trùng.
[12] Thơ không mang khẩu
khí đế vương của Lê thánh Tông còn nhiều, phần nhiều chép ở Hồng Đức Quốc âm thi tập. Nhưng lời văn còn nặng
nề, không sánh kịp ba bài trích dẫn. Những bài “khẩu khí” chỉ nghe truyền chớ
không thấy trong tập Hồng Đức.