Cụ
ĐÀO TẤN là người Vinh Thạnh, thụ nghiệp cùng cụ tú Nhơn Ân.
Đậu
cử nhân năm 23 tuổi, cụ làm quan trải ba triều Tự Đức, Đồng Khánh và Thành
Thái, lên đến chức Thượng Thư và được phong tử tước.
Tuy
chỉ đậu cử nhân, nhưng các bậc đại khoa đều phục cụ là người tài cao học rộng.
Sự
nghiệp văn chương của cụ thật vĩ đại.
Về
bên Hán văn cụ còn truyền lại tập Mộng Mai Ngâm Thảo gồm trên ba trăm bài.
Về
bên Quốc âm thì còn truyền những bổn tuồng hát bội:
-
Trầm Hương Các
-
Hộ Sanh Đàn
-
Cổ Thành
|
Sáng
tác triều Thành Thái
|
-
Vạn Bửu Trình Tường
-
Quần Trân Hiến Thụy
-
Tứ Quốc Lai Vương
-
Tam Bảo Thái Giám
-
Bình Địch
-
Đảng Khấu
|
Soạn
dưới triều Tự Đức theo lệnh nhà vua
|
-
Diễn Võ Đình
-
Hoàng Cổn
-
Cổ Thành
-
Tân Dã
|
Sáng
tác trước và sau lúc làm quan.
|
Trong
các tuồng, tuồng Vạn Bửu vĩ đại nhất và công phu nhất. Bộ này cụ soạn chung
cùng cụ Vũ Đình Phương và cụ Ngô Quí Đồng, soạn ròng rã mấy năm tròn mới xong.
Cụ Vũ và cụ Ngô chỉ soạn vài ba đoạn và nhuận sắc một đôi chỗ. Kỳ dư đều do
ngòi bút của cụ Đào thảo. Vua Tự Đức khuyên chuỗi và phê “Thần hồ kỳ hỹ” ý khen
văn chương như thần. Bổn Vạn Bửu cũng như năm bổn soạn theo lệnh vua Tự Đức, chỉ
trong Triều và các nhà quan Đại thần mới có.
Còn
các bổn tuồng khác thì rất phổ biến trong làng ca kịch cổ điển.
Ngoài
những bổn tuồng sáng tác, cụ còn nhuận sắc nhiều bổn tuồng xưa:
-
Tuồng Tam Nữ Đồ Vương, cụ sửa đoạn đầu và sửa tên sách là Khuê Các Anh Hùng.
-
Tuồng Phi Hổ, sửa đoạn Phi Hổ nằm miễu.
-
Tuồng San Hậu, sửa đoạn Hồn Linh Tá đưa Kim Lân qua ải và đoạn đổi chị đổi mẹ.
-
Tuồng Nguyệt Cô hóa cáo.
-
Tuồng Phi Phụng.
Có
người hỏi cụ sao không sửa toàn tập mà chỉ sửa một đôi đoạn mà thôi. Cụ cười
đáp:
-
Trong bữa ăn rau mắm, thỉnh thoảng ăn thêm một vài ba miếng thịt mới thật ngon.
Cụ
Đào chẳng những có tài soạn tuồng, mà các điệu bộ bài bản cụ đều tinh thông.
Triều Tự Đức trong Nội có đội Thanh Bình Vũ Ca đào tạo đào kép để hát chầu nhà
vua. Cụ Đào được đội Vũ Ca này tôn xưng là bậc thầy.
Truyền
rằng:
Một
hôm một ca công nổi danh ở Bình Định là Bát Phàn làm Trụ Vương hát câu:
Gió
hương thổi lọt hoàng bào
Kiều
mai tuyết điểm động đào mây giăng.
Cụ
khen giọng hay điệu bộ khéo, những cảnh gió hương thổi lọt hoàng bào và động
đào mây giăng, diễn tả tài tình, duy chưa lột được cái thần của tuyết điểm cầu
hoa mai.
Bát
Phàn bẩm:
-
Con chưa hề thấy tuyết thì làm sao diễn tả nổi.
Cụ
đáp:
-
Tuyết thì lạnh. Giọng và điệu phải làm sao cho
người nghe cảm thấy hơi lạnh xông vào mình, tức là đạt được ý của câu tuồng.
Bát
Phàn thỉnh giảo. Cụ bỏ roi chầu, bước lên sân khấu, cất giọng ra bộ một cách tự
nhiên… Bát Phàn sụp xuống lạy:
-
Thật lạnh xương sống! Nay con học thêm được một điều mới lạ. Vạn cảm.
Nghệ
thuật hát bội phát xuất từ Lộc Khê Hầu đến cụ Đào là tuyệt đỉnh. Cho nên bạn
hát bội suy tôn Lộc Khê Hầu ĐÀO DUY TỪ là tiền hiền và cụ ĐÀO TẤN là hậu hiền.
Cụ
Đào Tấn hay tuồng cũng như hay chữ là nhờ cụ tú Nhơn Ân. Cho nên đối với thầy từ
khi còn cặp sách đến lúc đã làm quan to, khi thầy còn tại thế cũng như lúc thầy
đã từ trần, cụ luôn luôn giữ trọn lòng kính trọng.
Trong
tuồng Ngũ Hổ Bình Tây về lớp Trại Ba Công Chúa chạy theo níu không cho Địch
Thanh trốn thoát đi đánh Tây Liêu có một chỗ cụ tú sơ ý. Đó là đoạn tới biên ải,
Công Chúa truyền tướng giữ ải là Cáp Man đóng chặt cửa ải đừng để Địch Thanh
qua. Thế mà khi đã bằng lòng cho Địch Thanh đi, lại không truyền Cáp Man mở cửa,
chỉ than vãn với nhau rồi chia tay:
Dứt
tình một khúc Dương quan
Tây
Liêu anh tới, Đơn bang em về.
Cụ
Đào định trình lên cụ tú để cụ sửa lại cho ổn. Nhưng chưa kịp thì cụ tứ tạ thế.
Để y cũ thì bổn tuồng là một viên ngọc liên thành có vết, còn tự ý sửa lại thất
lễ với thầy. Mãi về sau khi đã về vườn rồi, cụ mới mua một con heo và sắm lễ vật
đến nhà thầy, làm cỗ bàn cúng lạy, xin cho phép “mở cửa ải để đưa Địch Thanh
lên đường”. Lễ xong thêm vào bản cảo, ngay sau câu “Dây phiền đó buộc chuỗi sầu
đây mang” [1] và trước câu “Dứt
tình một khúc Dương quan”, một đoạn ngắn:
(Công Chúa): - Bớ Cáp Man, truyền Cáp Man mở ải,
đặng đưa nguyên soái lên đàng.
Phu
nhân ơi! Song lụy san san, thốn tâm cảnh cảnh! Hồn ly biệt dường mê dường tỉnh,
đoạn ân tình khó dứt khó chia! Nơi Tây Liêu hiểm ác sơn khê, (Còn) Tinh La Hải
cao cường pháp thuật. Sợ khó nỗi bêu đầu ác tặc (Mẹ mẹ ợi!) Biết bao giờ thấy mặt
từ nhan! Rượu vơi vơi nâng chuốt chén vàng, chân rén rén dìu đưa người ngọc.
(Hát
nam) Rén rén dìu đưa người ngọc
Kể
khôn cùng chân tóc kẽ răng!
(Địch Thanh): - Thôi, em ở lại sương sa ba nở mẹ
tròn con vuông rồi anh sẽ về…
(Hát
nam) Anh hùng nước bước còn săng
(Thôi
em đừng khóc)
Đừng
dun mày liễu mà quằn ruột lan.
Trong
khi vợ chồng than vãn thì cửa ải lần lần mở. Hai vợ chồng mới chia tay bằng câu
hát của cụ tú:
Dứt
tình một khúc Dương quan
Tây
Liêu anh tới, Đơn bang em về.
Đoạn
sửa thật hay!
Xem
chừng đó cũng biết qua được tài nghệ của cụ Đào. Nhưng để giúp quý bạn muốn hiểu thêm cụ, trong khi chưa tìm được các
bổn tuồng, lão xin trích thêm một vài đoạn trong một vài tuồng phổ biến nhất.
Và trước khi trích văn, lão cũng xin nói sơ đôi đặc điểm mà lão đã nhận thấy
trong các bổn tuồng của cụ:
-
Tất cả tuồng hát của cụ Đào, tuồng nào thứ lớp cũng gọn gàng liền lạc, văn
chương cũng trang nhã du dương. Những câu Nam câu Khách, câu xướng câu ngâm…
hay đã đành, cho đến những câu nói lối, những câu đệm (hường, tán) cũng rất chải
chuốt, chải chuốt nhưng vẫn giữ được vẻ tự nhiên.
Ví
dụ một đoạn rong tuồng Hộ Sanh Đàn, lớp Loan Anh nghe Tiết Cương bị Võ Tam Tư
vây khổn, vội đem lâu la xuống núi cứu nạn:
Loan Anh nói:
-
(Ối chao ôi!) Bất thăng kinh hãi kinh hãi! (Chăng biết phu quân tôi mần răng
mà) Chí thử gian nan gian nan! (Phu quân ơi!) Cửu khúc trường lửa đốt xốn xang;
song hàng lụy mưa tuôn lã chã. (Nay phu quân tôi chích thân ngộ nạn, tặc chúng
lai truy. Phu quân tôi biết chạy đàng mô?) Qua Xuyên quận giang trình hiểm trở,
(Còn) Về Long Sơn lâm lộ đa kỳ! (Phu quân tôi) Vì hiếu tình nong nả quyết ra
đi; (Chừ) Cơn hoạn nạn bơ vơ ai giúp đỡ?! (Nhưng thôi thôi) Bước anh hùng đã lỡ,
gan nhi nữ càng dày. Nếu chẳng liều sanh tử giữa chông gai, (thì) ai còn kể ân
tình trong khói lửa.
Những
câu nói lối đối nhau từng câu từng chữ, nhưng trôi chảy tự nhiên như thế, đoạn
nào cũng có, tuồng nào cũng có.
Lắm
câu đẹp như thơ:
Đầy
áo rơi muôn hộc thiên hương,
Đôi
mắt vẽ một người quốc sắc.
(Vạn
Bửu Trình Tường)
Giấc
hải đường còn hỡi say sưa,
Màu
trúc diệp cùng nhau chếnh choáng.
(Trầm
Hương Các)
Phận
liễu bồ khép bóng thu phong
Phụng
cân trắc nhờ ơn xuân hải.
(Trầm
Hương Các)
Từ
phu tướng Trường an tế tảo,
Luống
thâm khuê vĩnh dạ ưu sầu!
Khéo
loi thoi dương liễu mạch đầu,
Còn
thảnh thót hoàng oanh chi thượng!
(Hộ Sanh Đàn)
vân
vân…
Còn
những câu hát Nam, thì từ lời của những kẻ phong lưu đài các, đến những con ở
gái, chú quân canh… thảy thảy đều nhịp nhàng êm ái, và giọng văn tứ thơ thay đổi
theo từng nhân vật.
Khi
thì trang nhã đài các:
(Hảo
a!) Phong thanh nguyệt hiểu, thủy tịnh ba minh.
Phi
quế trạo tiền hành, tố hoa trì thưởng thắng.
Thưởng
thắng trải miền hương quốc
Gió
trăng lồng một bức kỳ quan
Hương
trời sắc nước xuê xoang
Nồng
đếm tố nguyệt vẽ ngàn tịch dương.
Trận
thanh tao dợn làn sóng nhỏ
Bóng
mơ màng ai đó? Vấn tân…
(Vạn Bửu Trình Tường)
Khi
thì bi tráng trầm hùng:
Thế
sự huyễn như xuân mộng, nhân tình bạc tợ thu vân! Cắn răng cười, cười cũng khó
khăn, ôm lòng chịu, chịu càng cay đắng.
Cay
đắng cho tình cho cảnh
(Bớ
Thiết Giao! Con gắng lấy nghe)
Ngóng
phương trời gởi gánh non sông.
(ấy
vậy mà tôi vẫn tưởng rằng)
Bể
oan chưa đổi bụi hồng còn xa!
Cuộc
phong ba đâu là chỉ ngạn
(Ối
phu nhân ôi!)
Mối
ân tình nhiều đoạn chia phôi!
(Hộ
Sanh Đàn)
Lao
xao sóng bủa ngọn tùng
Gian
nan là nợ anh hùng phải vay.
(Hộ Sanh Đàn)
Khi
thì thê lương áo não:
-
Mặt giã từ đài các, gót lần lữa yên vân (ối phu quân ôi) Sợi nhân duyên vắn vỏi
chỉ bao ngần; Đường danh lợi dở dang xin chịu vậy!
Chịu
vậy đường ân nỗi ái
Tâm
sự này khó hỏi cao xanh!
Trì
trì bạch nhật vãn; niếu niếu bi phong sanh. (Thương hại cho tôi) Phu tế khinh bạc
nhi, tại thế bất xứng ý. (Chừ tôi biết đi mô đây? Thôi thôi) Giang san dao lạc
xứ, tử biệt dĩ thôn thanh!
Mảnh
gương phút đã tan tành
Xuân
vi gió lạnh thu đình trăng trong.
Bước
non sông ngại ngùng chi xiết
Nợ
phong trần trả hết từ đây…
(Hộ Sanh Đàn)
Những
câu giai tác như những câu thượng dẫn có hàng vạn trong các bổn tuồng. So với
Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du, Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu, Chinh
Phụ Ngâm của Đoàn Thị Điểm, thì thơ lục bát và song thất lục bát của cụ Đào Tấn,
về phẩn phẩm thật không nhượng, về phần lượng rõ nhiều hơn bội phần. Rất tiếc
các nhà nghiên cứu về văn học lâu nay không mấy người để ý khai thác.
Cụ
Đào Tấn viết tuồng hát chẳng phải để mua vui, chỉ để nêu gương trung hiếu tiết
nghĩa cho đời soi như hầu hết các tuồng cổ điển xưa, mà còn để ký thác tâm sự,
một mối tâm sự nan giải cùng người cố chấp đương thời:
Chịu
vậy đường ân nỗi ái
Tâm
sự này khó hỏi cao xanh.
Nguyên
cụ ra làm quan gặp được vua Tự Đức là nhà vua tri kỷ, nhưng lại nhằm lúc khó
khăn, nước nhà lắm việc nan giải.
Giặc
Pháp như tằm ăn dâu, hết chiếm Nam, liền đi lần ra Bắc… Thế nước suy vi mà triều
đình Huế chưa giác ngộ, tự cho mình là “bốn nghìn năm văn hiến” chê người là dã
man, nhất định bế môn tỏa cảng, không chịu giao thiệp cùng các nước Tây Phương.
Các quan triều phần đông nặng lòng thủ cựu, lo việc chính trị đương thời mà khư
khư lấy phép vua Nghiêu vua Thuấn làm gương mẫu, hễ nghe ai bàn đến những gì mới
lạ thì cho là ngụy thuyết, bác hẳn đi.
Các
nhà chí sỹ như Nguyễn Trường Tộ đi du học về làm tờ điều trần xin nhà vua cải
lương mọi việc; như Đinh Văn Điền dâng sớ đề nghị mở mang kinh tế, chỉnh đốn
quân sự, tiếp xúc ngoại bang… Đại để đều là những điều ích quốc lợi dân cả. Các
quan đại thần cho là lời nói bậy nói càn, làm hủy hoại kỷ cương, đòi bắt làm tội!
Thậm chí đến lời trần tấu của các sứ thần như Nguyễn Hiệp đi sứ Xiâm La, Lê
Đĩnh đi sứ Hương Cảng, đem cảnh tượng nước ngoài về thuật lại để mong triều
đình theo gương mà canh cải cho hợp thời, thảy thảy cũng đều bị đình thần
bác bỏ.
Vua
Tự Đức cũng có ý muốn canh tân, song không thể tự quyết. Đứng trước họa xâm
lăng mỗi ngày mỗi bành trướng, nhà vua lo sợ thường hỏi quần thần những phương
pháp phú quốc cường binh. Nhưng kẻ bàn thế này, người bàn lẽ nọ, nào thủ nào
chiến, cãi cọ lung tung…, rốt cuộc vẫn không tìm ra chước gì để cứu vãn tình thế.
Cụ
Đào Tấn là người thức thời. Cụ rất tán thành những lời đề nghị của các nhà hữu
tâm dâng lên nhà vua. Nhưng thế lực yếu, cụ đành bưng miệng khoanh tay! Hưởng lộc
nước mà không dùng khả năng để cứu nước, trong khi thế nước đương suy, cụ tự lấy
làm tủi hổ:
Thịt
đi thây chạy bời bời
Lộc
vua ăn uổng cột trời để xiêu!
(Khuê Các anh hùng)
và
rất lấy làm đau khổ:
Sụt
sùi lệ nhỏ thấm bâu
Hột
cơm tấm áo dễ nào quên ơn.
(Hộ Sanh Đàn)
vào
khoảng cuối đời Tự Đức, thế nước lại càng nguy khổn. Không lẽ ngồi đợi nước đến
trôn, cụ bèn lấy cớ còn cha mẹ già, dâng sớ xin về phụng dưỡng. Lời xin đã
không được chuẩn y mà cụ còn bị giáng xuống bốn cấp. Nhưng không bao lâu ông cụ
thân sinh tạ thế, cụ được phép về đinh gian.
Kế
đó vua Tự Đức thăng hà (1883), đám quyền thần lộng hành, trong triều rối loạn.
Quân Pháp thừa thế kéo binh vào Huế uy hiếp, triều đình phải công nhận quyền bảo
hộ của Pháp ở Bắc kỳ và Trung kỳ. Hòa ước Quí Mùi (1883) và hòa ước Giáp Thân
(1884) ký kết. Nước Việt Nam hoàn toàn mất chủ quyền!
Mặc
dù đã biết trước, mặc dù cố tránh xa để khỏi trông thấy tận mặt những cuộc tan
thương, cụ Đào khi nghe tin sơn hà xã tắc bị sụp đổ vẫn không cầm được mối
thương tâm. Nhưng cũng như một số sỹ phu tâm huyết khác, như hoàng giáp Phạm
Như Xương, Tam Nguyên Nguyễn Khuyến, Án Sát Chu Mạnh Trinh, cụ Đào Tấn tự biết
mình bất lực trước thời cuộc, đành ôm bụng mà thở than cùng giấy bút:
-
Mảnh gương phút đã tan tành
Xuân
vi gió lạnh thu đình trăng trong.
(Hộ Sanh Đàn)
-
Thương ai công nghiệp nửa chừng
Cây
rung khi gió lửa hừng khi mưa!
Sầu
ai ai đã hay chưa?
Kế
đó Kinh thành Huế thất thủ (1885) vua Hàm Nghi chạy ra Quảng Trị xuống chiếu Cần
Vương. Phần đông sỹ phu trong nước hưởng ứng.
Ở
Bình Định đảng Cần Vương do anh hùng Mai Xuân Thưởng lãnh đạo mời cụ Đào tham
gia. Vốn biết rõ tình hình trong nước, vốn thấy rõ lực lượng của Việt Nam, về
nhân sự cũng như về quân sự, đều kém hẳn quân Pháp, chống cự bằng vũ lực không
cữu vãn được tình thế mà còn hao tốn máu xương, nên cụ tìm cách từ chối. Một số
người trong Đảng cho rằng cụ là người không biết nghĩ đến đại nghĩa, đã từng hưởng
ơn vua mà không lo đền nợ nước, bèn đem quân đến vây nhà bắt về làm tội. Cụ
cùng một lão bộc đương đêm nhảy qua rào sau chạy thoát.
Cụ
chạy ra Phù Cát lên ẩn tại chùa Linh Phong. Sau ra làm quan cùng vua Đồng
Khánh.
Đã
không ứng nghĩa Cần Vương mà còn ra làm quan cùng triều đình mà hầu hết các sỹ
phu yêu nước đều cho là ngụy, nên cụ bị rìu búa xuân thu. Cụ rất lấy làm khổ
tâm:
Phúc
bồn đã lờ gương nhật nguyệt
U
cốc đành khuất bóng dương quang
(Tôi
nghĩ lại, trộm trách ai)
Khéo
trăm trô lời quạ Dã Tràng!
(Khiến
cho)
Thêm
déo dắt tiếng ve Tây Lục!
Tây
Lục tiếng ve déo dắt
(Ối
Tiên quân ôi!)
Tưởng
oan tình ruột thắc đòi cơn!
Ngàn
năm uống oán ăn hờn
Âu
lo nghiệp chúa, riêng than nỗi mình.
(Khuê Các anh hùng)
Tấm
lòng trung quân ái quốc của cụ, chỉ riêng mình cụ biết, chỉ riêng trời phật biết:
-
Viễn khứ trông chừng viễn lộ
Đố
ai tường lòng mỗ thật hư!
Thất
tình mối nước nên thưa
Bóng
tiều lướt sóng tiếng ngư vang rừng.
Trống
dạ tuần nửa gần quan tái
Cơ
hội này phải dại mới khôn.
(Khuê Các anh hùng)
-
Ngậm ngùi nhớ mẹ thương cha
Biết
đâu căn kiếp con ra nỗi này
Ngập
ngừng lướt gió xông mây
Từ
bi xin chứng thân này đắng cay…
(Trầm Hương Các)
Lòng
cụ đối với vua Tự Đức chẳng những nặng nghĩa quân thần mà còn dày ơn tri ngộ. Nỗi
thương nhớ vua, cụ đã gởi trong những câu hát Nam trong tuồng Khuê Các anh hùng
mà cụ nhuận sắc lúc ẩn nơi chùa Linh Phong Phù Cát:
Yên
tỏa hàn phong sương yểu yểu
Lộc
ngưng Tương Thủy tuyết ai ai.
Ối
Tiên quân ôi!
Ẩm
hận trường thiên tư Bắc Khuyết
Hàm
sầu bạch nhật khốc Tây Đài.
Tuyết
ai ai tuyền đài thẳm thoắt
Vọi
vọi nhìn kìa nước nọ trăng.
Mơ
màng biển bạc giăng giăng
Đối
với cảnh vua Hàm Nghi xuất bôn, lòng cụ cũng ngậm ngùi chua xót:
Dấu
ngựa đường hoa đem quạnh quẽ
Chày
kình dinh liễu tiếng lao xao.
Sá
chi tôi sương tắm mặt đào,
Thương nỗi chúa
bụi mờ vóc ngọc.
Vóc ngọc ngùi
thương nỗi chúa,
Bước gập ghềnh lối
cũ đường xưa.
Nhạn chiều chen
đám mây thưa,
Lôi thôi chiếc
bóng bơ thờ giọng kêu!
Gian nan chút phận
đã liều
Cô đăng gió tạt
bảng kiều sương rơi…
(Khuê
Các anh hùng)
Rõ
là “Vi nho phùng thế nạn, sầu tứ không mang mang”.
Và
đọc những câu tâm sự của cụ Đào, lòng ai khỏi bồi hồi áo não. Cổ nhân nói “Văn
chương chi sự, thốn tâm thiên cổ”. Thật là trầm thống thiết tha! Và những bổn tuồng
của cụ Đào cũng như tập Đoạn Trường Tân Thanh của cụ Tố Như đã chứng minh cho lời
nói thống thiết ấy.
Những
bổn tuồng của cụ Đào còn phản ảnh những trạng thái xã hội từ thời Tự Đức đến thời
Thành Thái. Ví dụ những cảnh tượng, những nhân vật trong tuồng Hộ Sanh Đàn là
hình ảnh xã hội, là bóng dáng những người có tên tuổi dưới triều Đồng Khánh
Thành Thái. Tình trạng xã hội Việt Nam buổi ấy có khác chi tình trạng xã hội
Trung Hoa thời Võ Hậu cướp ngôi nhà Đường. Bọn Võ Hậu, Võ Tam Tư trong tuồng tượng
trưng bọn thực dân cướp nước. Tiết Nghĩa đại biểu cho đám nịnh thần vong ân bội
nghĩa. Tiết Cương, Loan Anh…, tiêu biểu cho những bậc trung can nghĩa khí chống
lại đám cầm quyền bất lương… vân vân…
Đó
là một điểm mà bấy lâu các bạn thích xem tuồng hát ít lưu ý.
Mục
đích của Vườn Hoa Thơ chỉ nhằm vào việc giới thiệu những áng văn chương có giá
trị của người xưa mà lâu nay các nhà viết văn học sử bỏ quên, cùng những giai
tác của các bạn bốn phương gởi đến tặng, chớ không chú trọng việc nghiên cứu
tác phẩm hay phê bình văn học. Cho nên về tuồng hát cụ Đào, nói qua bấy nhiêu
tưởng cũng đã vừa phải.
Bây
giờ lão xin nói về thơ của cụ:
Cũng
như cụ Nguyễn Du, cụ Đào Tấn dồn văn tài vào thơ lục bát, song thất lục bát và
thơ chữ Hán. Cho nên Quốc âm về Đường luật, lão chỉ nghe truyền có một bài:
THUẬT
HOÀI
Năm
mươi bốn tuổi biết chi chưa
Ngắm
nghía mày râu cũng đã vừa
Chén
rượu nhớ hoài người lớp trước
Cung
đàn quên phứt chuyện ngày xưa.
Mẹ
già tám kỷ trông hôm sớm
Vua
trẻ nhiều phen gội móc mưa.
Ngoảnh
lại vườn đông muôn dặm cách
Cội
tùng khóm cúc hãy còn lưa.
Văn
chương tao nhã.
Thơ
chữ Hán của cụ cũng rất mực tài tình. Xin trích một bài trong Mộng Mai Ngâm Thảo,
mà nhiều người thuộc. Bài cụ đề nơi vách chùa Linh Phong:
Bách bát chung thinh khước thọ điên
Ngẫu tùy ngâm tiết khấu đàn duyên
Thập niên hồ hải qui lai mộng
Nhất kỉnh yên hà tự tại thiên
Giai sỹ từ bi ninh thị phật
Sơn ông danh tự bán nghi tiên
Thanh tuyền tế ẩm tri chân vị
Bất phụ nhân gian phất diễm truyền.
Tạm
dịch:
Cành
xanh trăm tám tiếng chuông rơi
Hứng
đến thiền môn bước thảnh thơi
Một
bức yên hà trời tự tại
Mười
năm hồ hải mộng qui lai.
Am
mây Ông Núi chừng tiên đấy
Lượng
bể người thơ đích Phật rồi
Ngụm
nước thanh tuyền chơn vị tỏ
Tiếng
thơm khôn phụ lẫy lừng nơi.
Bài
này truyền là cụ làm lúc lên lánh nạn tại chùa ông Núi (Linh Phong tự). Nhưng
xét từ ý, lão ngờ rằng cụ làm trong lúc đã về hưu.
Bởi
vì sau bao nhiêu năm ra làm quan cùng vua Đồng Khánh, Thành Thái, chánh tích tốt
đẹp của cụ đã làm cho các sỹ phu trong nước trước kia chê trách cụ, thấy rõ tâm
thuật của cụ mà trở thành bạn xướng thù, như cụ Vân Sơn Nguyễn Trọng Trì là một.
Uy danh của cụ chẳng những được khôi phục mà còn gia tăng. Cho nên lòng cụ
không còn những nỗi thương đau của ngày trước, đã trở nên thanh thản bình an.
Bài
ĐỀ LINH PHONG TỰ phản ảnh tâm trạng thanh bình của cụ, lúc về sống cùng khóm
cúc cụm tùng.
Cụ
về hưu được ba năm thì thất lộc. Thọ 63 tuổi.
Cụ
đã sửa soạn cuộc vĩnh du từ lúc mới về vườn. Cụ là người thanh nhã cao đạm nên
lấy tiểu hiệu là MAI TĂNG và lấy hòn Mai Sơn ở thôn Huỳnh Mai, xã Phước Thuận,
làm nơi an nghỉ cuối cùng.
Khi
tìm được nơi an nghỉ cuối cùng vừa ý, cụ khẩu chiếm một tuyệt:
Nhàn hướng Mai Sơn bốc thộ vôn (viên)
Thạch đầu cao cứ tiếu vô ngôn.
Mai Tăng tha nhật tàng mai cốt
Ứng hữu mai ba tác mộng hồn.
Tạm
dịch:
Non
Mai vườn thọ tìm xong
Mai
Tăng tựa đá ung dung mỉm cười.
Nay
mai vùi nắm xương mai
Hồn
mai chung giấc mộng dài nở hương.
Phần
mộ của cụ hiện nằm trong rừng mai nơi Mai Sơn. Mỗi bận xuân về hoa mai nở đầy rừng,
hồn cụ cùng hồn mai thấp thoáng trong “ám hương phù đỗng nguyệt hoàng hôn” hoặc
quanh quấn trong màu mây khói tỏ mờ theo tiếng hát du dương:
Gió
hương thổi lọt hoàng bào
Kiều
mai tuyết điểm động đào mây giăng.
[1] Xem toàn khúc hát ở
trước, trong đoạn nói về cụ tú Nhơn Ân Nguyễn Diêu.
[2] Đái lệ: như sông giải
non mài nói ở trên.
[3] Lên ẩn nơi chùa Linh
Phong, nhân thấy bổn tuồng Tam Nữ Đồ Vương, cụ đọc để mua vui. Nhân thấy có
đoạn hợp tình hợp cảnh của mình, cụ mới sửa lại để mượn văn chương gởi gắm chút
lòng. Những bổn tuồng khác, cụ sửa cũng nhắm mục đích ký thác, còn bảo là “thêm
thịt vào bữa cơm rau” là nói chơi vậy thôi.
[4] Câu này là câu tôi
được nghe. Trong các bổn tuồng phổ biến trong ca trường nhiều bản chép là:
Mơ màng nước biếc non
xanh
Thương tang phút đổi ân tình khôn
phai.