Mùa Đông, khí
trời lạnh lẽo lại thường hay mưa gió, cảnh vật tiêu điều, nên ít người thích.
Nhưng đối với khách làng thơ, thì mùa nào có thi vị mùa nấy. Bởi vậy mùa đông
cũng có nhiều thơ, có nhiều thơ hay tuy không nhiều bằng mùa xuân, mùa thu…
|
Ở Việt Nam, bài
thơ Đông xưa nhất và được truyền tụng nhất mà tôi được biết là bài của Phù Gia
Nữ Học Sỹ NGÔ CHI LAN, đời Lê Thánh Tông (1460-1497):
Bửu lư bát hỏa nhân bình tiểu
Nhất bối La Phù phá thanh hiểu
Tuyết tương lãng ý thấu sơ liêm
Phong đệ khinh thăng lạc hàn chiểu
Mỹ nhân kim trướng yểm lưu tô
Chỉ hộ vấn song phiến phiến hồ
Ám lý vãn hồi xuân thế giới
Nhất châu phương tín tiểu sơn cô.
Tạm dịch:
Lửa
hồng lư nhúm sang bình bạc
Chén
rượu tiêu sầu hương bát ngát
Hơi
lọt rèm sưa tuyết lạnh lùng
Gió
đừa ao quạnh bằng xao xác.
Nhà
vàng người ngọc trướng lưu tô
Cửa
sổ phòng văn giấy phất hồ
Xuân
đã âm thầm xoay vận thắm
Tin
mai non vắng một nhành phô.
Đó là một trong
bốn bài từ Xuân Hạ Thu Đông đề nơi bình phong phòng khách, gọi là Tứ Bình.
Bài Đông - cũng
như ba bài Xuân Hạ Thu - gồm hai bài tuyệt cú, một vần trắc một vần bằng. Tuy
là hai bài khác vận, nhưng ý tứ liền lạc, từ trên xuống dưới đi một hơi, như tơ
sen luồn trong hai khúc cọng bị ngắt.
Vào đề, tác giả
nói ngày về mình đương ngồi trong nhà cao sang, sưởi lửa hồng, nhấm rượu ấm.
Rồi mượn hơi tuyết lọt rèm sưa để đưa lòng ra tận nơi ao vắng rơi băng. Đoạn từ
nơi vắng vẻ lạnh lùng trở về nơi nhà vàng cùng giai nhân ngồi nương trướng gấm.
Nhà
vàng người ngọc trướng lưu tô.
Ấm cũng quá!
Song chỉ một mình kể cũng buồn. Tuy không lạnh lẽo chớ cũng lạnh lùng, lạnh
lùng vì cõi lòng chưa có người ấp ủ. Nỗi lạnh lùng ấy chắc không kém gì nỗi
lạnh lùng của anh hàn sỹ ngồi cùng quyển sách bên cửa sổ giấy phất đầy hồ để
che gió lọt.
Tại sao tác giả
lại đem giai nhân và hàn sỹ để gần bên thơ? Là vì khách phong lưu ngồi một mình
làm gì khỏi mơ tưởng đến người phong nhã. Và khách phong nhã khi mở sách ra làm
gì lại chẳng nhớ câu “Thư
trung hữu nữ nhan như ngọc”, mà để lòng đến khách phong lưu… Tài
tử giai nhân là nợ sẵn… Trong khoảng xa cách vốn đã có sẵn tình gần gũi rồi:
Xuân
đã âm thầm xoay vận thắm
Tin
mai non vắng một cành phô.
Chuyển kết vừa
làm thắm ý hai câu “tài tử giai nhân”, vừa làm ấm toàn bài thơ từ trên đến
dưới. Thật khéo quá! Khí bài thơ thật chẳng khác anh khí của long mạch chạy từ
núi phía Tây xuống đến núi phía Đông thì hồi cố. Và long huyệt nằm tại nơi “Kim
trướng” và “vân song”.
Sau Phù Gia Nữ
Học Sỹ thì có Liễu Hạnh công chúa.
LIỄU HẠNH Công
Chúa giáng thế đời Lê Anh Tông (1556-1573) và hiển thánh đời Lê Thế Tông
(1573-1599).
Cũng như Nữ Học
Sỹ, Công Chúa nổi danh một thời. Trạng nguyên Phùng Khắc Khoan cũng phải khâm
phục.
Công Chúa cũng
có bốn bài từ Xuân Hạ Thu Đông được truyền tụng. Đây bài Đông từ làm theo điệu
Nhất Tiễn Mai:
Huyền minh bá lịnh mãn quan san
Hồng dĩ Nam hoàn, nhạn dĩ Nam hoàn.
Sóc phong lẫm liệt tuyết man man…
Biến ỷ lan can ! Quyện ỷ lan can…
Ủng lư thượng nhĩ giác thanh hàn.
Tọa chẩm nan an ! Ngọa chẩm nan an !
Khởi quan cô dịch lạc trần gian,
Ba bất tri hàn, nhân bất tri hàn.
Tạm dịch:
Mây
huyền giăng líp núi sông
Xa
xôi nhạn tiếp theo hồng về Nam.
Rét
căm căm từng cơn gió bấc
Thêm
từng cơn tuyết dật dờ rơi.
Lan
can đứng mỏi lại ngồi
Lò
hương lửa bén mà hơi chẳng nồng.
Trở
vào trong nén lòng tựa gối,
Mới
toan nằm đã vội đứng lên !
Từng
không bỗng rụng nhạc tiên
Người
bên hoa nở đều quên lạnh lùng.
Lời đẹp điệu
cao. Nhưng đọc thơ, chúng ta chỉ biết rằng tác giả bị cảnh đông làm rung động
tâm hồn, song không thể đoán biết tác giả bâng khuâng những gì!
Lý Bạch thấy mỹ
nhân khóc, không biết khóc về việc gì. Nhưng nhìn người đẹp khóc, lấy làm thích
thú, thích thú vì những giọt lệ long lanh đôi mày liễu nhíu lại, làm cho khuôn
mặt đã đẹp càng đẹp thêm. Đọc bài thơ của Liễu Hạnh Công Chúa cũng thế. Chúng
ta không biết vì sao tác giả ngồi đứng không yên, nằm ngồi không yên. Nhưng
chúng ta thấy thích thú vì những cử chỉ ấy làm cho bài thơ thêm linh động. Đọc
thơ tự nhiên chúng ta cảm thấy cũng đứng ngồi không yên nằm ngồi không yên, như
chính mình là tác giả. Song rồi đọc tiếp:
Từng
mây bỗng rụng nhạc tiên
Người
bên hoa nở đều quên lạnh lùng.
Thì dường đương
đứng trong nơi gió thổi, bống nghe tiếng địch thoảng…, gió liền ngừng… Nhìn ra:
mặt hồ im lìm in rõ vầng trăng tròn lóng lánh… Lòng ta cũng như mặt hồ, tự
nhiên trở nên trong sáng yên vui, quên tất cả những gì đã quấy rầy tâm trí.
Đó là đứng trên
phương diện văn chương thuần túy mà thưởng thức.
Về mặt xã hội,
qua hai bài trên, chúng ta cũng có thể nhìn thấy đôi cạnh khía của Lê triều.
Bà Ngô Chi Lan
sống vào đời Hồng Đức là thời mà văn trị võ công của nước Việt Nam thịnh hơn
tất cả các đời sau cũng như trước. Bà Liễu Hạnh ở vào thời họ Mạc và họ Lê đánh
nhau. Họ Mạc làm vua ở miền Bắc gọi là Bắc triều, họ Lê đóng đô ở Thanh Hóa nhờ
họ Trịnh phò tá, gọi là Nam triều.
Bài bà Ngô Chi
Lan phản ảnh xã hội thời thịnh Lê.
Bài bà Liễu Hạnh
phản ảnh xã hội thời Lê-Mạc, đúng hơn là xã hội dưới chế độ của họ Mạc ở miền
Bắc.
Vì vậy cảnh đông
trong thơ Công Chúa ám đạm và gay gắt thập bội cảnh đông trong thơ Nữ Học Sỹ.
Đông của Nữ Học Sỹ tuy cũng có tuyết cũng có phong, song tuyết chỉ đưa hơi lạnh
lọt rèm sưa, gió chỉ thôi băng nhẹ rơi trên ao vắng. Còn tuyết của Công Chúa
bay mịt trời, gió của Công Chúa là gió bấc lẫm liệt, hai thứ hợp lại với nhau
tạo thành khí lạnh đến độ lửa sưởi cũng không thấy ấm!
Nghĩa là hoàn
cảnh xã hội dưới thời nhà Mạc ở miền Bắc thật là thống khổ. Do đó lòng người mà
hồng nhạn là biểu tượng đã hướng về Nam hầu hết.
Câu “Cô địch lạc
trần gian” không phải là sự thật mà chỉ là lòng ước mong hiện ra thơ.
Đi sâu vào hoàn
cảnh xã hội, chúng ta không còn thắc mắc: “Vì sao tác giả đứng ngồi không yên,
nằm ngồi không yên”. Đứng ngồi không yên, nằm ngồi không yên, là vì thương xót
người đời phải chịu khổ sở vì cảnh “sắc phong lẫm liệt tuyết man man” của nhà
Mạc.
Hoàn cảnh xã hội
thời Mạc là thế. Còn thời thịnh Lê, xã hội Việt Nam có thật tốt đẹp hoàn toàn?
Nói thái bình
thạnh trị là nói một cách tương đối thôi. Chớ cảnh chênh lệch giữa kẻ giàu
người nghèo, mà Nhà vàng dừng trướng lưu tô, phòng văn phất giấy cho đỡ rét, làm
tượng trưng, còn quá rõ rệt thì làm gì có thái bình thạnh trị thật sự. Vã nếu
có thật sự thì tác giả còn ước “vãn hồi xuân thế giới” mà làm gì?
Nghĩa là thời
thịnh Lê chưa phải là thời Nghiêu Thuấn. Còn nhiều sự bất công trong xã hội
khiến người có thiện tâm thiện chí không vừa lòng.
Lòng bất mãn của
một số trí thức đối với thời Thịnh Lê biểu lộ rõ ràng trong bài thơ Đông của
THÁI THUẬN, người đồng thời cùng bà Ngô Chi Lan và làm quan ở Nội Các:
Lao niên ngột tọa tịnh như ngu
Liễu giác quang âm tợ khích cu.
Hà thủy hữu băng ngư tín đoạn
Lâm a vô diệp thước sào cô
Công danh thùy nghĩ Bình Hoài tướng
Văn sử ngô tàm Phụ Hán nho
Vị bã âm dương tiêu trưởng lý
Mai ba chi thượng vấn Nghiêu Phu.
Nghĩa là:
Suốt
năm ngồi lặng dường ngu tối
Ngày
tháng đành hay ngựa lướt song
Vắng
vẻ tin thơ dòng giá đọng,
Bơ
vơ tổ thước dặm rừng không.
Công
danh ai dễ so Hàn Tín ?
Văn
sử ta riêng thẹn Tử Phòng.
Đem
lẽ âm dương hỏi Thiệu Tử
Cành
mai phải tiết nhởn nhơ bông.
Bài thơ có ngụ ý
cảm khái.
Cảnh đông thật
lạnh lẽo tiêu điều! Dưới mắt tác giả Thái Thuận, cảnh đời vua Lê Thánh Tông có
khác gì mùa đông sông giá rừng không!
Và mượn điển Hàn
Tín Tử Phòng vào cảnh mùa đông, chứng tỏ rằng thời thịnh Lê, chánh thể có khác
gì đời Hán Cao Tổ là đời thể hiện trung thực câu “cao điểu tận lương cung
tàng”, đời mà các nhà làm sử “văn nô” tán tụng là thái bình thịnh trị. [1]
Câu luận phải
chăng là ám chỉ việc triều đình nhà Lê tru di gia đình Nguyễn Trãi là một bậc
khai quốc công thần vừa có tài vừa có đức? [2]
Hay việc Lê Lợi bức tử Trần Nguyên Hãn, tru di Phạm Văn Xảo mà công đối với nhà
Lê chẳng khác công Hàn Tín đối với nhà Hán.
Bài thơ ý tứ
thật thâm viễn, đã có giá trị về mặt văn chương còn có giá trị về mặt lịch sử.
Nó tố giác mặt trái của một thời đại được lịch sử trải gấm thêu hoa.
Và đó là mùa
đông của thời xưa.
Còn mùa đông của
thế kỷ XX này?
Ai nấy đều đã
thể chứng.