Xuân là một mùa
được nhiều người yêu chuộng nhất. Cho nên thơ nói về xuân, thơ ca tụng xuân
nhiều hơn thơ về các mùa.
|
Thơ Xuân nhiều,
tất nhiên có nhiều bài hay. Thơ đời Lý đời Trần đời Lê hầu hết đều là thơ chữ
hán. Cụ Ngô Tất Tố đã sao lục và công bố được một ít thơ Lý, Trần. Và tôi cũng
có được một ít thơ đời Lê.
Xin nói riêng về
Thơ Xuân.
Thơ xuân hay
nhưng khó xuất sắc, bởi xưa qua nay lại, tứ thơ không khỏi trùng nhau. Phụng,
loan, công, trĩ… dù đẹp đến đâu mà nơi nào cũng có thời nào cũng có đầy vườn
chật rừng, thì chỉ xem một vài con trong mỗi thứ cũng đã đủ. Vậy chúng ta lựa
trong số thơ Xuân còn truyền tụng một ít bài có những nét độc đáo để thưởng
xuân.
Trước hết chúng
ta hãy thưởng thức bài XUÂN HIỂU tức là Buổi sớm mùa xuân, của vua TRẦN NHÂN
TÔNG (1258-1308):
Thụy khởi khải song phi,
Bất tri xuân dĩ qui.
Nhất song bạch hồ điệp,
Phách phách xấn hoa phi.
Nghĩa là:
Giấc
tỉnh hé song mây,
Xuân
về lòng chửa hay.
Chập
chờn đôi bướm trắng
Liền
cánh lướt hoa bay.
Thật là thanh
thoát! Thật là tế nhị! Không cần nói chi cho nhiều. Chỉ 20 chữ mà nói rõ hết
ngoại cảnh và nội tâm. Tác giả lại còn cho chúng ta hưởng thêm cái thú “vô tình
mới thật hữu tình”, cái thú “không ngờ mà có và có một cách tự nhiên”. Lòng
không yên tịnh, không khoáng đạt, thì không thể thốt ra được những lời nói
phong lưu ý vị như thế.
Chúng ta đọc
thêm bài XUÂN CẢNH của nhà vua, để thấy rõ tâm hồn cảu con người tuy ở trong
cảnh cao sang tột bực mà vẫn không đắm lòng trong dục lạc kiêu sa:
Dương liễu hoa thâm điễu ngữ trì
Họa đường thiềm ảnh mộ vân phu.
Khách lai bất vấn nhân gian sự,
Chỉ bạng lan can khán thúy vi.
Ý thú thật là
siêu khoáng! Con người Thơ đã hòa mình vào cảnh vật khiến cho khách trần đến
chơ cũng cảm hóa theo mà quên hết cả “nhân gian sự”.
Xin tạm dịch:
Dương
liễu đầy hoa
Dịu
dàng chim ca.
Thềm
hương ánh nguyệt,
Nhẹ
nhàng mây qua.
Khách
trần đến chơi
Hỏi
chi việc đời.
Lan
can đứng tựa
Ung
dung nhìn trời.
Thơ đời Trần
cũng như thơ đời Lý thường ngậm chứa khí vị Thiền môn. Bởi vì Đạo Phật trong
hai đời Lý Trần rất thạnh và những nhà học rộng tài cao phần nhiều ở trong của
Chiền.
Sang đời Lê, Nho
Giáo độc tôn. Phần nhiều các thi nhân đều dùng văn chương để tải đạo. Thơ chịu
ảnh hưởng nhiều về triết học Trình Chu. Những nhà thơ lấy văn chương để giải
thót tâm hồn vẫn chịu chung ảnh hưởng của thời đại. Như THÁI THUẬN là một.
Họ THÁI có bài
SƠ XUÂN rằng:
Tam đông quá liễu nhất xuân qui,
Tác noãn đông phong phóng phóng xuy
Băng tuyết đống ngân phô thủy diện,
Kiền khôn sanh ý thượng lâm chi.
Liễu hoàn cựu lục canh du tịnh,
Đào thí tân hồng điệp vị tri.
Nhật mộ hương quan hồi thủ vọng,
Thảo tâm du tử bất thăng bi.
Tạm dịch:
Đông
qua, xuân lại trở về đây,
Trải
ấm từng cơn gió nhẹ bay.
Ngân
tuyết băng lưa dờn dợn sóng,
Lượng
trời đất trải đượm đà cây.
Xanh
xưa nhuộm liễu oanh còn nín,
Hồng
mới tô đào bướm chửa hay.
Ngoảnh
lại làng quê trời xẩm tối,
Ngậm
ngùi tấc cỏ dễ mà khuây.
Đứng trước cảnh
“xuân mới về”, tác giả chẳng những chỉ xem bằng mắt, mà còn xem bằng tâm, bằng
lý, và tác giả đã xem bằng lý trí nhiều hơn bằng mắt, bằng tâm. Tác giả mượn
cảnh xuân để nói về lẽ “âm dương nhất khí”, “âm dương lưu hành, phát dục vạn
vật”. nhân đó gởi chút lòng “mong đem tấc cỏ đền nghì ba xuân”.
THÁI THUẬN đậu
tiến sỹ đời Hồng Đức. Tài cao học rộng, song không được nhà vua biết đến, nên
ngót hai mươi năm trời chỉ giữ một chân quan nho nhỏ ở trong Các, cho nên thơ
của họ Thái đều đượm vẻ buồn chán. Lòng buồn chán vẫn không dấu được trong lúc
muôn vật khoe tươi. Nghĩa là những bài thơ Xuân của tác giả đều có giọng ai
oán, hoặc nhiều hoặc ít. Bài thượng dẫn chưa cho chúng ta thấy rõ ràng chỗ “bất
đắc chí” vì tác giả chưa nói hẳn ra. Tâm trạng của tác giả biểu hiện nơi các
bài khác, như bài THƯƠNG XUÂN sau đây là một:
Thủy lưu đông thệ nhật tây bôn,
Cửu thập thiều quang kỷ kiến tồn.
Vũ ám vân mai phương thảo độ,
Oanh sầu yến thảm lạc ba thôn.
Phù sanh dĩ ngộ Nam Hoa mộng,
Lạc sự thùy đồng Bắc Hải tôn.
Giang thượng bất kham hồi thủ vọng,
Yên ba diếu diếu hựu hoàng hôn.
Tạm dịch:
Nước
cuốn về đông, tây ác trầm,
Thiều
quang chín chục sót bao lăm!
Oanh
rầu yến thảm thôn hoa rụng,
Mưa
lấp mây vùi bến cỏ thơm.
Giấc
thắm Nam Hoa đời dễ lạc,
Chén
vui Bắc Hải thú khôn tầm.
Trên
sông khói sóng theo ngày tối,
Ngoảnh
lại quê xa lệ khó cầm.
Lòng bi phẩn đối
với thân thế cũng như thời thế bộc lộ nơi câu trạng. Nhưng xuống câu luận tác
giả liền tìm lời an ủi: “Đời là thế, vì mấy ai phân biệt được giả chân, cũng
như Trang Sinh vừa chiêm bao xong, thức dây không biết rằng mình chiêm bao hóa
bướm hay bướm nằm chiêm bao hóa mình”. Và
“trên đời há dễ lắm người gặp được cảnh may mắn như Khổng Dung đời Hán,
đi làm quan nơi Bắc Hải mà nhà lúc nào cũng đầy khách, chung lúc nào cũng đầy
rượu”.
Và trong hầu hết
các bài thơ xuân của họ Thái đều tỏ ý nhớ nhà nhớ cha mẹ.
Đối với người
gặp được cảnh thuận thì xuân đem thêm hạnh phúc vào cho cuộc đời. Còn đối với
người có tâm sự buồn thương thì hương sắc của ngày xuân chỉ làm cho nét thương
tâm thêm sâu đậm. Đó là qui lệ chung áp dụng cho mọi nhà thơ chớ không riêng gì
Thái Thuận.
Và xem qua mấy
bài thơ xuân của Thái Thuận, chúng ta nhận thấy rằng tinh diệu chớ không siêu
thoát. Khác hẳn với thơ của Trần Nhân Tông. Riêng nói về cái hay cái đẹp của
thơ thì mỗi người có một vẻ xuân vậy.
***
Thơ xuân của cổ
nhân còn nhiều. Nhưng chúng ta chỉ xem “đôi bướm trắng bay lượn trong hoa” và
xem đi xem lại cho kỹ, xem với mắt, xem với lòng, xem với trí thì chúng ta cũng
đoán biết được toàn diện của mùa xuân trong thơ cổ nhân, một cách khái quát.
Thơ xuân của cổ
nhân là thế. Còn thơ xuân của các thi nhân hiện đại?
Thời cổ nhân là
thời Hán văn thịnh hành, cho nên những cái hay cái đẹp của tâm hồn cổ nhân phần
nhiều đều dồn nơi chữ Hán. Còn ngày nay là thời của Quốc âm, cho nên nói đến
thơ xuân hiện đại, chúng ta được trực tiếp hưởng lấy thú. Và cái hứng thú do
thơ xuân của các thi nhân hiện đại đưa đến cho quí bạn như sao, thì xin quí bạn
hãy trải lòng đón lấy.
Trong làng thơ
Quốc âm, nhà thơ nói về xuân nhiều nhất và có nhiều bài được truyền tụng, có lẽ
là Tản Đà NGUYỄN KHẮC HIẾU. Cứ mỗi lần xuân đến thời tiên sinh có thơ nói về
xuân hoặc đề cập đến xuân. Nhiều câu tuyệt tác. Như:
-
Cành liễu đông tay cơn gió thoảng
Con
tằm sống thác sợi tơ vương.
(Cảm
xuân)
-
Sương mù mặt đất người theo mộng,
Nhạn
lảng chân trời kẻ đợi thư.
(Ngày xuân tương
tư)
vân vân…
Nhưng thơ thất
ngôn của tiên sinh chưa rung cảm bằng thơ lục bát. Như bài VUI XUÂN sau đây:
Tin
xuân đến ngọn cây đào,
Bảo
cho hoa biết ra chào Chúa xuân.
Mỗi
năm xuân đến một lần,
Thiều
quang chín chục xoay vần chẳng sai
Ngày
xuân còn mãi không thôi,
Tuổi
xuân ai dễ xanh rồi lại xanh.
Đường
mây những khách công danh,
Mày
râu cụ lớn thay hình thanh niên.
Mày
ngài mấy ả Khâm Thiên,
Én
oanh dẫn lối con thuyền Tầm Dương.
Làng
văn mấy bạn văn chương,
Bút
hoa án tuyết, hơi sương mái đầu.
Tiểu
thơ ai đó tựa lầu,
Thơ
đào chưa vịnh, mai hầu bảy ba.
Trời
xanh, trời cũng khi già,
Xuân
xanh, xanh mãi đâu mà, hỡi ai ?
Gặp
xuân ta hãy làm vui,
Kẻo
nay xuân đến, kẻo mai xuân về.
Vui
xuân rượu uống thơ đề.
Những vần thơ
trích dẫn, lục bát cũng như thất ngôn, đều ngậm ý buồn. Những câu thất ngôn vì
ở trong “cảm xuân” và “ngày xuân tương tư” thì buồn đã đành, đến những câu lục
bát nhan đề là “Vui Xuân”, mà toàn đưa ra những cảnh não lòng. Miệng nói “hãy
vui đi” mà đôi tròng mắt đầm đìa những lệ! Tác giả chỉ vui gượng, vui gượng để
quên buồn, quên buồn trong chốc lát để khỏi phụ tình xuân. Chớ quên thế nào
được, vì:
Biết
bao ra Bắc vào Nam,
Bức
dư đồ rách đã cam khó lòng !
Văn
chương chút nghĩa đèo bòng,
Thuyền
không tay lái vẫy vùng được sao ?
(Xuân
tứ)
Ơn Tổ Quốc đã
không lo đền được, mà nợ văn chương lại cũng không dễ gì trả xong thì nhìn non
xanh nước biếc trong lúc xuân về đem cái già đến cho thân, làm sao không ngao
ngán lòng cho được.
Nhưng thống
thiết là bài hát nói GẶP XUÂN, tiên sinh làm năm Đinh Sửu (1937), hai năm trước
ngày tiên sinh tạ thế:
MƯỠU
Gặp
xuân ta giữ xuân chơi,
Câu
thơ chén rượu là nơi đi về.
Hết
xuân, cạn chén, xuân về,
Nghìn
thu nét mực thơ đề vẫn xuân.
NÓI
Xuân
ơi, xuân hỡi !
Vắng
xuân lâu, ta những đợi chờ mong.
Trải
bao nhiêu ngày, tháng, hạ, thu, đông,
Ròng
rã nỗi nhớ nhung, xuân có biết ?
Khứ
tuế xuân qui sầu cửu biệt,
Kim
niên xuân đáo khánh tương phùng.
Gặp
ta nay, xuân chớ lạ lùng,
Kể
từ độ quen biết xuân, bốn chín năm về trước,
Vẫn
rượu thơ, non nước, thú làm vui.
Đến
xuân nay ta tuổi đã năm mươi,
Tính
trăm tuổi đời ta có nửa.
Còn
sau nữa, được bao nhiêu xuân nữa,
Mặc
trời cho ta chửa hỏi làm chi.
Sẵn
rượu đào xuân uống với ta đi,
Chỗ
quen biết luận gì ai chủ khách.
Thiên
cổ vị văn song Lý Bạch,
Nhất
niên hà đắc lưỡng đông quân.
Dầu
trăm năm gặp gỡ đủ trăm lần,
Thơ
với rượu cùng xuân ta cứ thế.
Ngoài
trăm tuổi vắng ta trần thế,
Xuân
nhớ ta chưa dễ biết đâu tìm.
Cùng
nhau ta hãy uống thêm.
Tản Đà tiên sinh
mất ngày 20 tháng 04 năm Kỷ Mão (tức 17 tháng 6 năm 1939). Và bài hát nói trên
đây là bài thơ xuân cuối cùng của tiên sinh vậy.
Tiên sinh còn
nhiều bài thơ xuân khác, thất ngôn có, lục bát có, song thất lục bát có, hát
nói có… bài nào cũng chan chứa tình xuân, cũng ngậm chứa nỗi buồn hoặc man mác
hoặc sâu sắc.
Nhưng lòng sầu
của Tản Đà không não nuột, không ray rức như lòng sầu của hầu hết thi nhân
đương thời, nhất là lòng sầu của CHẾ LAN VIÊN.
Chế Lan Viên có
bài XUÂN VỀ rằng:
Pháo
đã nổ đưa xuân về vang động
Vườn
đầy hoa ríu rít tiếng chim trong.
Cỏ
non biếc, giãi mình chờ nắng rụng.
Bên
lau già, theo gió uốn lưng cong.
Đôi
bướm lượn, cánh vương làn sương mỏng
Chập
chờn bay đem phấn điểm muôn hoa.
Cất
tiếng hát ngây thơ trên cỏ rộng,
Đàn
chim khuyên đua nhặt ánh dương sa.
Hàng
dừa cao say sưa ôm bóng ngủ,
Vài
quả xanh khảm bạc hớ hênh phô.
Xoan
vươn cành khèo mặt trời rực rỡ
Bên
bóng râm lơi lả nhẹ nhàng đi.
Đây
tà áo chuối non bay phấp phới
Phơi
màu xanh lấp loáng dưới sương mai.
Đây
pháo đỏ lập lòe trong nắng chói,
Đây
hoa đào mỉm miệng đón xuân tươi.
Cảnh vật đều là
những cảnh vật chúng ta thường thấy. Nhưng dưới mắt nhà thơ, những cảnh vật
chúng ta thường thấy ấy lại hiện lên nhiều nét tân kỳ. Chúng đều có những dáng
dấp riêng, đều có tâm hồn riêng. Chúng đã hiện hình dưới ngòi bút thơ linh động
với “muôn sắc màu rạng rỡ dưới hương đưa”.
Chúng ta tưởng
chừng như lòng thi nhân hớn hở tưng bừng trước cảnh. Sự thật thì trái hẳn:
Nhưng
lòng ơi, sao không lên tiếng hát,
Nhớ
làm chi cảnh cũ những ngàn xưa ?!
Lòng
hỡi lòng ! Kìa trời xuân bát ngát
Muôn
sắc màu rạng rỡ dưới hương đưa.
Thi nhân không
cùng cảnh reo vui được là vì lòng “nhớ cảnh cũ những ngàn xưa” khiến cho mắt
thi nhân nhìn thấy trong cảnh tưng bừng ngắn ngủi của ngày xuân, những cảnh
điêu linh tàn tạ không tránh khỏi của nhân loại mà giống Chiêm Thành là tượng
trưng. Cho nên thi nhân phải gào thét:
Hãy
bảo ta: Cánh hoa đào mơn mởn
Không
phải là khối máu của dân Chàm,
Cành
cây thắm nghiêng mình trong nắng sớm
Không
phải là hài cốt vạn quân Chiêm.
Quả
dừa xanh không phải đầu chiến sỹ,
Xác
pháo rơi không phải thịt muôn người.
Hãy
bảo ta: trời xuân luôn vui vẻ,
Và
bảo ta: Muôn vật đợi ta cười.
Ta
những muốn vui cười, ta những muốn
Dẹp
sầu tư, ca hát đón xuân tươi.
Nhưng
than ôi, xuân về trong nắng sớm
Mà
lòng ta, đóng lạnh giá băng thôi !
Cảnh xuân chẳng
những không đem lại cho thi nhân đôi chút ấm áp, mà còn gợi trong tâm hồn những
nỗi đau thương, hãi hùng như thế ấy, khiến nhìn vào đâu cũng thấy sầu thảm kinh
hoàng:
Trời
xuân vắng. Cỏ cây rên xào xạc,
Bóng
đêm luôn hoảng hốt mãi không thôi.
Gió
xuân lạnh, ngàn sâu thôi ca hát,
Trăng
xuân sầu, sao héo cũng thôi cười.
(Đêm xuân sầu)
Cho nên Chế Lan
Viên không thích xuân:
Tôi
có chờ đâu có đợi đâu,
Đem
chi xuân lại gợi thêm sầu.
Với
tôi tất cả như vô nghĩa,
Tất
cả không ngoài nghĩa khổ đau.
Ai
đâu trở lại mùa thu trước
Nhặt
lấy cho tôi những lá vàng,
Với
của hoa tươi, muôn cánh rã,
Về
đây, đem chắn nẻo xuân sang.
(Xuân)
Trông xuân, Tản
Đà cũng buồn cũng chán, song buồn chán một cách hiền lành khiến chúng ta dễ
dàng chia sớt. Nỗi buồn của Chế Lan Viên vừa não nùng vừa ray rứt, lòng chán
nản của Chế Lan Viên vừa mãnh liệt vừa dị thường, khiến chúng ta ngợp vì cao
lớn, chớ không cảm bởi không hòa nhịp với tâm hồn bình dị của chúng ta.
Tản Đà và Chế
Lan Viên là hai thái cực. Giữa hai nhà còn nhiều nhà thơ khác cũng có nhiều
giai tác về xuân. Và những thơ xuân thời Pháp thuộc, hầu hết cũng như thơ Tản
Đà và Chế Lan Viên, đều ngậm chất sầu. Vui tươi và bình thản không thường thấy
trong những vần giai tác.
Đó là do hoàn
cảnh xã hội. Bởi thi nhân dù cố ẩn mình trong tháp ngà đi nữa cũng không tránh
khỏi ảnh hưởng của chung quanh.
Đến khi toàn thể
nhân dân đứng dậy đánh Pháp giành độc lập cho Tổ Quốc tự do cho giống nòi, thì
lòng thi nhân cũng cùng với nước non mà tưng bừng rộn rịp. Nỗi vui mừng ấy thể
hiện trong bài NHẬP VÀO XUÂN MỚI của Yến Lan:
Đèn
chong gác hẹp - sầu nhân bản -
Cháy
lụn guồng tim lạnh bút thơ.
Xuống
thang mặt trắng bơ thờ,
Va
vào thế sự còn ngờ chiêm bao.
Không
gian hồng ngát rộng,
Man
mác nẻo dương quan.
Mùa
- tôi chưa kịp sống -
Đưa
én dệt cây ngàn.
Chim
ca tình lúa mới,
Cành
múa trái mọng tròn.
Nắng
không vương chờ đợi,
Đường
cỏ mẹp chân mòn.
Triều
dâng bể lớn - hồn dân tộc -
Lấp
cạn cồn hoang loáng bãi dương.
Cỏ
non in vết bạn đường,
Bốn
phương dồn lại một trường hân hoan.
Núi
thôi phân ranh giới,
Đường
nối vạn lý tình.
Người
mang hương vào hội,
Gót
rỗ dấu trường chinh.
Nhịp
chân vẽ hoa bụi,
Vung
tóc lóe sương hồng.
Tiếng
gọi trong lòng núi,
Lời
đáp tự nguồn sông.
Cầm
cày hiểu nghĩa đất,
Đạp
cửi biết tình tơ.
Mài
gươm rèn nết sắt,
Đọc
gió cát tìm thơ.
Co
tay vồng núi thịt,
Nhô
trán đội trăng sao.
Nhai
cỏ đắp thương tích,
Người
xuân tắm nắng đào
Gió
đùa mây ám - hờn nhân loại -
Vạch
nẻo bình minh lóa bến vui.
Chiếc
thuyền viễn thú tuông xuôi,
Nhấp
nhô đảo biếc dường trôi theo thuyền.
Nắng
chảy qua triền suối
Hao
hao niềm cố nhân.
Lòng
- tôi không tiếc nuối -
Gởi
theo ngày xuất quân.
Hương
ngập chẳng chờ hoa,
Hoa
nở không đợi nguyệt;
Nguyệt
lên giữa xế tà
Nhập
vào xuân bất diệt.
Xuân
ấm chân son - màu thế hệ -
Trên
nền vũ tạ ấm sênh ca.
Nghiêng
tai nghe nhạc hải hà,
Mờ
trong tiếng nhạc, tiếng gà đêm đông.
***
Những bài thơ
trích dẫn trên đây là những mảnh lòng xuân của những khoảng thời gian xưa cũ,
những đóa hoa lòng còn sót lại với nắng mưa.
Sống trong giai
đoạn mới, nhân lúc xuân về, ngồi ngắm lại những đóa xuân cũ ấy, người hữu tâm
sao khỏi sanh niềm cảm cựu thương kim.