Phong
trào Cần Vương bị dẹp tắt, nền đô hộ Pháp đặt lên đất nước Việt Nam. Những kẻ
xu thời thì chạy theo quân thù tìm vinh hoa. Những người ái quốc thì ôm lòng cô
trung sống trong thâm khê bồng thất, và thỉnh thoảng nhìn non sông mà than dài:
Mây
mưa lợt đợt gió hiu hiu
Một
tiếng tò loe ruột chín chiều!
Cây
cỏ đòi nơi buồn dượi dượi
Non
sông bốn mặt vắng thiu thiu.
Chằm
nhạn lênh đênh nước tản bèo!
Ướm
hỏi bao giờ bờ cõi cũ
Ngậm
cơm vỗ bụng thấy trời Nghiêu.
Đó
là tiếng than đứt ruột của cụ Tây Sơn NGUYỄN KHUÊ.
Cụ
tú người thôn Vân Sơn, quận An Nhơn, đậu ba khoa tú tài. Sau chán khoa cử vào
Phú Yên dạy học. Lúc vãn niên trở về Bình Định, đến trú ngụ tại Phú Phong (Bình
Khê).
Cụ
rất sở trường về thơ Quốc âm. Thơ không phải nghĩ, hễ mở miệng là thành. Cho
nên lúc nào làm cũng được, đề gì ngâm cũng được. Được nhiều người thuộc nhất là
những bài:
ÁO
VÁ QUÀNG
Mặc
ai tím tía mặc the hàng
Con
mắt xiu vì áo vá quàng
Mới
cũ rõ ràng in mật mực
Trước
sau khăng khít lượt hai đàng
Tình
chàng sánh với khi đằm thắm
Nghĩa
thiếp nào quên lúc cũ càng
Giúp
đỡ anh hùng cơn lỡ vận
Thân
này chi bận chốn giàu sang.
VỊNH
THU ĐỦ
Phải
chăng chẳng phải tại hồi trồng
Cái
đực bây giờ đủ cũng xong
Trên
dưới chập chồng hoa lại nụ
Trước
sau dải dóc trái cùng bông
Chả
nem tuy chẳng bằng khi có
Nộm
gỏi nào hay đỡ lúc không
Cái
đã nên yêu thời vẫn phải
Đừng
nên phụ đực mới là công.
ĐÚC
BÁNH XÈO
Mồi
còn nhử được để chi meo
Cất
quán xây lò đúc bánh xèo
Mặt
phấn gây nên đôi nút rỗ
Lòng
vàng xếp lại nửa vòng eo
Thơm
quần dép bướm lần vào cửa
Béo
quến dù dơi rủ xếp kèo
Lọ
phải nường Văn chìm hũ thiếc
Vật
này cũng đỡ khách quên nghèo.
DỞ
CÁI BÒ
Sớm
mai thức dậy chấp tay co
Chạy
thẳng ra sông dở cái bò
Quì
gối mở dây môi tím ngắt
Khom
lưng nhổ nọc dái đen mò
Tôm
càng đập dập kho cùng cải
Cá
chạch dần sơ nấu với ngò
Lếu
láo miễn rằng qua cửa cổ
Không
tiền ra chợ chẳng ai cho.
Thời
Tiền Chiến, ở hạt Bình Khê, những người có học và yêu văn chương, từ 20 tuổi trở
lên, không mấy ai không thuộc hoặc không nghe truyền những bài ấy. Các vị phụ
lão thích ngâm nhất bài CẢM THỜI trên kia và hai bài sau đây:
CẢNH
GIÀ
Già
này cũng bởi lúc còn trai
Khóm
róm bao giờ dám trách ai
Béo
sợ ngây dầu không hảo mỡ
Chua
e nhăn mặt chẳng thèm xoài
Mắt
lờ chậm thấy ai ai mãi
Tai
nặng lâu nghe hữ hữ hoài
Tuy
vậy thấy già ai cũng ước
Sống
mà vô ích sống chi dai.
BẤT
ĐẮT DĨ TÙNG TỤC
Ối,
thôi thôi, ối ối thôi thôi
Bày
biện làm chi lắm hỡi đời
Chè
nhỏ mất công tìm chén bịt
Rượu
ngon nhọc sức kiếm ve vòi
Thuốc
hao giấy quyến thêm hao lửa
Trầu
tốn cau dầy lại tốn vôi
Cãi
chẳng tiện bề theo khó nỗi
Người
răng ta cũng rứa cho rồi.
Tất
cả bài nào, lời thơ cũng như lời nói chuyện, bình dị tự nhiên. Mới nghe qua mới
xem qua, tưởng ai cũng có thể làm được. Nhưng bắt chước làm thử, thì khó khăn
như kết cánh bay theo bướm theo chim.
Bướm
và chim chỉ vẫy cánh là bay. Tài làm thơ của cụ tú cũng dễ dàng lanh lẹ như bướm
như chim vẫy cánh. Cho nên rầy học trò, mắng học trò, khuyên học trò, cụ dùng
thơ thay lời nói:
Chẳng
học thời thôi học phải siêng
Đừng
làm lếu láo uổng cơm tiền
Ngày
thời tráo chác dong chơi mãi
Tối
lại nghêu ngao chúi ngủ liền
Chẳng
thuộc mượn hơi hùa đứng đám
Không
thông nhận lớp nín ngồi riêng
Năm
nào cũng rứa sao hay chữ
Chẳng
học thời thôi học phải siêng.
Hay:
Mơ
màng trước mắt kiều lưng ngựa
Rổn
rảng bên tai lạc cổ cầy
Cơm
mấy mo cau ăn cũng hết
Chữ
lưng lá mít đựng không đầy.
Vân vân…
Dạy
con cháu trong nhà, cụ cũng dùng thơ:
-
Cà luột sồn sồn um chẳng thấm
Măng
còn nhân nhẩn nấu sao ngon.
-
Rau lang bóp dập vừa chừng chín
Canh
mướp sôi lâu bẫy hết ngon.
-
Mền gối sắp ngay khi thức dậy
Chiếu
mùng giũ kỹ lúc vô nằm.
-
Cơm ăn miễn đặng thường ngon miệng
Áo
mặc cầu cho đủ kín thân. Vân vân…
Thấy
cụ làm thơ quá dễ dàng, bạn bằng thường ra đề và buộc cụ phải làm tịch thượng.
Không khi nào cụ từ chối. Có một lần cụ cùng mấy ông bạn ngồi uống trà nơi chái
tây. Một người đàn bà láng giềng vô ý ra tiểu nơi rào phía trước. Các bạn cười
bảo:
-
Con mẹ kia ra đề thi cho anh đó.
Cụ
cười và đọc:
Bốn
phía trông chừng thấy chúng xa
Hay
tay khẽ trụt bức quần là
Gành
ngao thấp thoáng rêu mờ đá
Bãi
hạc lao xao nước trỗ hoa
Kiến
tưởng mưa dông tha trứng chạy
Cóc
ngờ lụt ói cõng con ra
Cũng
vì méo mó nên che đậy
Nắng
giữ mưa gìn của mẹ cha.
Một
thầy đồ Nghệ nghe tiếng cụ hay thơ, dùng một đầu đề rất thô tục và hạn những vận
rất khó, đưa đến thách cụ:
-
Tàn một cây hương mà làm xong, dù hay dù dở cũng xin tôn làm thầy học.
Đề
bài: L… lớn tày mo. Vận: to, mo, so, đo, bò.
Không
chút phật ý, cụ ung dung lấy giấy bút viết:
Tày
cái bàn tay nghĩ đã to
Cái
này cha chả lớn tày mo
Xấp
ba lá chóc không bì kịp
Vạch
một bồ đài mới xứng so
Tắm
giếng hãi hồn con gánh nước
Lội
sông mất vía gã chèo đò
Gái
mà như thế ai thèm đoái
Lỏm
lẻm dòm chơi họa có bò.
Đề
bài thì tục mà lời thơ rất thanh, và bài này cũng như bài trên, trạng luận thật
không còn chỗ bắt bẻ.
Cụ
vốn là người trong phong trào Cần Vương còn sống sót. Viên tri huyện Bình Khê
thường tỏ ý kỳ thị:
-
Sắt còn chưa làm được việc gì, huống hồ cứt sắt.
Cụ
nghe được, làm một bài thơ VỊNH CỨT SẮT gởi đến cho huyện quan. Bài thơ tám
câu, còn nhớ được cặp luận:
Ủi lầm sợ nỗi heo
trầy mũi
Cạp
lỡ e khi chó gãy răng.
Thật
là ăn miếng trả miếng, mà miếng trả cay đắng gấp trăm lần miếng ăn. Không ai ngờ
rằng một nhà nho hiền lành chẳng mấy khi nặng lời với một đứa bé, mà đến khi bị
kẻ quyền thế phạm đến danh dự thì phản ứng một cách cang cường một cách mãnh liệt
như thế.
Cụ
sống trên 70 tuổi. Lúc cụ ngọa bệnh con cháu xúm nhau săn sóc. Cụ cảm động tặng
cho mỗi người, cả lớn lẫn nhỏ, một luật thơ. Và đến khi gần tắt thở, cụ nhìn mọi
người, đọc một luật nữa. Đọc xong thì từ từ nhắm mắt. Còn nhớ câu kết rằng:
Rắn
rít chi hòng thay vỏ lại
Tình
thương mặc ý khóc hu hi.
Thơ
cụ làm rất nhiều - sống trên 70 tuổi mà ngày nào cũng có thơ thì không nhiều
sao được - nhưng không chép thanh tập, nên bị thời gian vùi lấp e đến tám chín
chục phần trăm.
Cụ
sanh hạ được bốn người con trai mà người nào cũng hay chữ nổi tiếng:
-
Nguyễn Bá Huân.
-
Nguyễn Trọng Trì.
-
Nguyễn Thúc Mân.
-
Nguyễn Quí Luân.
Người
đương thời sánh gia đình cụ với gia đình Tô Lão Tuyền đời Tống, mặc dù hai bên
có đôi điểm khác nhau:
-
Họ Tô thì ba cha con, Tô Lão Tuyền, Tô Thức, Tô Triệt, đều đỗ tiến sỹ. Thêm Tô
Lão lại có người con gái là Tô Tiểu Muội hay chữ không nhượng hai anh và có chồng
là Tần Thiếu Du cũng đỗ trạng.
-
Còn họ Nguyễn thì cả bốn cha con đều ứng nghĩa Cần Vương, lấy bút nghiên làm
mâu làm thuẫn.
Trừ
ông Nguyễn Thúc Mân không nghe có tác phẩm lưu truyền, ba ông Bá, Trọng, Quí đều
có thi văn Quốc âm và Hán tự để lại, kẻ nhiều người ít.
Các
con ông đều học cụ Tú.
Trong
bốn ông, ông NGUYỄN BÁ HUÂN hay chữ nhất.
Hay
chữ nhưng lại coi thường khoa mục. Ông cùng ông Phạm Trường Phát ở Phù Cát nổi
tiếng là cuồng chữ [2]. Khoa nào ông
cũng đi thi. Nhưng không mang lều chiếu giấy bút mà chỉ mang theo một bầu rượu
đầy ăm ắp. Vào thập đạo lãnh giấy bút làm văn. Hễ làm được một câu thì thưởng một
chén rượu. Thưởng mãi thành say, không còn biết gì trời đất… Nhờ học trò cùng
đi thi giúp đỡ và quan trường vị nể, nên khoa nào trở về cũng được bình yên. Có
một khoa vì muốn cho tên ông ghi bảng, quan trường bảo lính lén đập vỡ bầu rượu.
Ông tức mình, cáo bệnh bỏ thi. Từ ấy không thèm đến trường ốc nữa.
Cuộc
khởi nghĩa Cần Vương bị thất bại, ông uất hận thành điên. Ngày ngày thống ẩm cuồng
ca. lắm đêm đội hương án ra gò, đốt nhang đèn, đọc văn tế điếu các bậc anh hùng
nghĩa sỹ cổ kim vì nước bỏ mình. Một đêm tế Trần Quang Diệu, rồi uống rượu say,
nhảy lên hương án nằm ngủ, bị cảm mạo thương hàn mà mất.
Năm
1929, sau khi đậu bằng cao đẳng tiểu học, được rảnh rang, lão đi lượm lặt được
một ít thi ca của các danh sỹ tiền bối ở Bình Định. Trong số sưu tầm được có ba
tác phẩm của ông Nguyễn Bá Huân:
-
Trinh Phụ Khốc Phu Từ, dài một trăm câu song thất lục bát, văn chương trầm thống.
-
Dịch Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị, làm theo thể lục bát, văn chương lưu loát, so với
bài dịch của Phan Huy Thực không thú.
-
Chê Gái Lấy Nài Chăn Voi, làm theo thể Đường luật.
Những
tài liệu tôi sưu tầm được đều bị thất lạc thời kháng chiến chống Pháp
(1945-1954). Chỉ còn nhớ bài Đường luật:
CHÊ
GÁI LẤY NÀI CHĂN VOI
Thiếu
chi ông cống với ông đồ
Ứng
kẻ đầu voi ứ hự cô!
Thể
tốn vườn xuân măng đã lắm
Khiến
nên nhà hạnh ngọc trao cho
Hèn
đành hẹn với duyên bành vố
Cao
lại nhường chi mặt võng dù
Thôi
thôi còn trách nữa chi mô!
Bài
này ông làm lúc còn thanh xuân.
Nguyên
trong thời Tự Đức Hàm Nghi, ở thành Bình Định có nuôi mấy con voi. Trong số voi
này có một con to lớn và rất hung dữ, gọi là Thú Đú. Ai thấy cũng sợ. Sợ voi sợ
cả tên nài chăn voi.
Lúc
bấy giờ ở vùng Kim Châu gần thành Bình Định có một thầy đồ dạy học trò khá
đông. Thầy có cô con gái có nhan sắc. Nhiều người học trò gấp ghé muốn làm rể
thầy. Nhưng không hiểu vì sao thầy đồ lại đem con gái gả cho tên nài chăn voi!
Các văn nhân hay tin rủ nhau làm thơ “phúng điếu”. Bài của ông Nguyễn Bá Huân
được nhiều người hoan nghênh.
Bài
này lời văn cổ kính. Khí thơ mạnh nhưng đằm. Câu trạng thích thực đầu đề thật
sít sao, mà còn ngậm được cái ý “thầy đồ gả con gái”. Vế trên mượn ý trong câu
ca dao:
Có con chẳng gả
cho voi
Để voi lên xuống
cuốn vòi bẻ măng.
Câu
thứ bảy có thể nghĩ vì sợ oai tên nài chăn voi thú đú (thố đố) mà đành kết
duyên cùng “bành vố”, hoặc vì thích vóc lớn sức mạnh của voi thú đú mà đem thân
trao cho nài chăn voi.
Lời
chê bai tuy nặng, nhưng không có ác ý. Đó không phải vì không rõ nguyên nhân của
cuộc gả bán, mà chính vì không muốn đem những bí mật của người phơi bày ra giữa
thập mục, mà chỉ nói đến những gì thiên hạ đều thấy rõ ràng. Nói để trêu ghẹo
cho vui vậy thôi. Đó là do tác giả không phải người khinh bạc như phần đông các
nhà thơ châm phúng.
Bài
lục bát và bài song thất lục bát, văn chương đại để cũng như bài Đường luật, giọng
trầm, lời tươi, ý đọng. Bút pháp của ông NGUYỄN BÁ HUÂN khác hẳn cụ Tú, mà cũng
không giống hai ông em Nguyễn Trọng Trì, Nguyễn Quí Luân.
__________________________________________________________________
Chằm nhạn: Nơi dân ở đông đúc. (Nhạn trạch).
Ngậm cơm vỗ bụng: do chữ Hàm bô cổ phúc, tả thái bình thời vua Nghiêu.
[2] Bình Định song cuồng:
Xem Nước Non Bình Định và xem tiếp đoạn sau về Phạm Trường Phát.