Đặng
Xuân Bảng hiệu Hy Long, đậu Tấn sỹ khoa Bính Thìn, niên hiệu Tự Đức thứ 9
(1856). Bên Hán văn, văn chương có tiếng là hùng tráng. Bên Quốc âm, còn để lại
chừng vài mươi bài thơ Hàn luật. Phần nhiều là thơ cảnh. Lời văn cổ nhã, như
bài Đề Núi Dục Thúy đã trích dẫn ở trước kia [1]
và bài Đề Động Bích Đào sau đây:
|
Động
Đào mở khóa dễ ai hay
Ngó
tựa Thiên Thai giữa cõi này
Róc
rách một dòng khe cuốn gió
Rỡ
ràng năm sắc đá chen mây
Cờ
tiên cuộc trải vòng kim cổ
Thơ
thánh câu đề giọng tỉnh say
Ướm
hỏi chủ nhân đâu vắng tá?
Nga
Sơn còn đó động còn đây. [2]
Thơ
nhiều tài mà ít tình, có cảnh có thú mà ít vị. Cho nên không quyến rủ được lòng
người thưởng cảnh trong thơ.
Thích
thú nhất trong số thơ Hy Long mà tôi được đọc là bài:
ĐỀ
ẢNH
Chen
vai quả đất đứng trên vòng
Trời
sanh ra ta có ý không?
Trải
kiếp chưa phai hồn cố quốc
So
gan mới biết mặt anh hùng
Mấy
hàng tóc bạc từng dâu bể
Một
tấm lòng son giãi núi sông
Gió
Á mưa Âu thay đổi mặc
Trơ
trơ như đá vững như đồng.
Văn
hùng, khí tráng, đọc thấy phấn khởi trong lòng. Nhưng có người bảo:
-
Hay thì hay thật, song không sát đề. Bởi theo phép làm thơ, cặp trạng phải
thích thực đầu đề, nghĩa là phải nói thế nào cho người đọc thấy rõ là ảnh, chớ
đây hoàn toàn nói người. Đó là một bài thơ “Cảm thuật” chớ không phải “Đề ảnh”.
Đánh
giá như vậy cũng phải và đó là theo quy tắc trường ốc mà
phê phán. Chớ thường thường thi nhân làm thơ không theo một qui tắc nào hết mà
chỉ theo trào lòng của mình. Lúc cao hứng thì ngâm tràn viết tràn. Thành thơ rồi
mới đặt đầu đề, cũng như con sanh rầu mới coi mặt đặt tên. Hoặc lấy vài ba ý tứ
chính của bài thơ mà mệnh danh.
Bài
“Đề ảnh”, nếu tôi không lầm thì là nhân nhìn bức ảnh mình, tác giả cao hứng nói
lên thân thế và tâm sự mình, rồi sẵn bút sẵn nghiên mới viết thơ vào bức ảnh để
trước mắt. Chỉ chép tám câu thơ mà thôi. Sau này những người thấy hay chép lại
để xem, mới thêm đầu đề vào để gọi dễ nhớ. Chớ nào phải lấy bức ảnh mà ra đề để
làm thơ đâu mà buộc phải sát đề.
Thơ
cử nghiệp là hữu đề chi thi.
Thơ
của các thi nhân chân chính thường là vô đề chi thi.
Tùy
Viên gọi Hữu đề mà hay là nhân xảo, Vô đề mà hay là thiên công.
Nhưng
xét cho kỹ, bài ĐỀ ẢNH đâu có phải là không ăn đề. Chữ PHAI là “hình thức nổi”
để nói về ảnh. Còn năm câu từ câu bốn trở xuống đều có nói gạnh đến ảnh, nghĩa
là đều dùng “phương pháp chìm” để “đề cao” ảnh. Đại để: nếu không so gan thì tưởng
là một vật vô tri vô giác, có tướng không tâm, chớ nếu người đời đem gan mình
ra đọ thì sẽ thấy đó là một bậc anh hùng, bởi vì người đời chạy theo thời, mà ảnh
vẫn giữ vững chân tướng trước những cuộc bể dâu biến đổi.
Huống
nữa Người chẳng phải là ảnh, nhưng ảnh lại là người:
Ngã bất thị cừ cừ tức ngã
Thân ly ư ảnh ảnh đồng thân. [3]
Cho
nên nói người tức là nói ảnh. Mới ngó thì như không ăn đề, nhưng nghĩ kỹ thì thật
sát đề. Nếu vào trường thi, gặp được quan trường sáng suốt, không đợi thần áo đỏ
gật đầu cũng phải lấy đậu.
Tôi
liên tưởng đến BÀI NÓI CHUYỆN VỚI ẢNH của Tản Đà:
Người
đâu cũng giống đa tình
Ngỡ
là ai lại là mình với ta
Mình
với ta tuy hai nhưng một
Ta
với mình sao một mà hai?
Năm
nay mình mới ra đời
Mà
ta ra trước đã ngoài đôi mươi
Cuộc
nhân thế câu cười tiếng khóc
Nghề
sanh nhai lối dọc đường ngang
Đầu
xanh ai điểm hơi sương [4]
Những
e cùng thẹn những thương cùng sầu.
Đôi
ta vốn cùng nhau một tướng
Lạ
cho mình sung sướng như tiên
Phong
tư tài mạo thiên nhiên
Không
thương không sợ không phiền không lo
Xuân
bất tận trời cho có mãi
Mảnh
gương trong đứng lại với tình
Trăm
năm ta lánh cõi trần
Nghìn
năm mình giữ tinh thần chớ phai.
Tản
Đà cũng như Hy Long mượn ảnh để nói mình. Nhưng mỗi tác phẩm là một góc trời
riêng biệt, tánh chất khác nhau, sắc thái khác nhau.
Hy
Long phơi bày ý chí.
Tản
Đà diễn tả tâm tình.
Một
bên thiên về lý trí.
Một
bên thiên về tình cảm.
Một
bên hùng hồn.
Một
bên uyển chuyển.
Cả
hai đều có sức tác động: Đọc bài của Hy Long, người đọc phấn chí; đọc bài của Tản
Đà, người đọc bùi ngùi trong tâm. Tức là hai bài thơ về ảnh thượng dẫn đều rung
cảm người đọc. Như thế là thơ hay.
Thơ
của Hy Long Đặng Xuân Bảng hầu hết đều thiên về lý trí, thơ cảnh cũng như thơ
tình. [5].
Bài
thơ đề Động Bích Đào và bài Đề Ảnh tiêu biểu cho thơ cảnh và thơ tình của họ Đặng.
[1] Xem bài số 20 ở trước
nói về Núi Dục Thúy.
[2] Động Bích Đào ở núi
Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa.
[3] Cặp trạng bài thơ “Tự
đề tiểu ảnh” của Thái Hư thiền sư. Đại ý nói: Ta chẳng phải mày nhưng mày lại
là ta; thân vốn lìa xa ảnh, song ảnh vẫn cùng chung với thân. Đó là nói về bản
thể và ứng hóa thân.
[4] Tản Đà tiên sinh bạc
tóc sớm.
[5] Thơ cảnh và thơ tình
nói đây là theo nghĩa rộng.
Thơ cảnh không phải là thơ tả cảnh, vì thơ Việt Nam cũng như thơ Trung
Hoa không có thơ tả cảnh, như trước đây đã nói (xem bài số 8 và số 20).
Thơ tình cũng không phải thơ nói
về tình ái. Cũng như cổ nhân nói “thi ngôn chí”, chí không phải chỉ nói về ý
chí hay chí hướng của con người. Tình cũng như chí là chỉ tất cả những gì thuộc
về phần tinh thần của con người.