Ngoài
những bậc có đại danh như Phan Thanh Giản, Bùi Hữu Nghĩa, Huỳnh Mẫn Đạt, Nguyễn
Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Nguyễn Hữu Huân…, miền Nam còn những người có văn
chương truyền thế. Như Đỗ Minh Tâm, Phan Tử Nhàn, v.v…
ĐỖ
MINH TÂM hiệu là Minh Giám, nguyên có chân nhiêu học tức là khóa sinh, nên thường
gọi là Nhiêu Tâm. Học giỏi nhưng thi mãi không đỗ.
Thời
bấy giờ, thực dân Pháp đã chiếm cứ Nam kỳ. Một người như ông tuy không đỗ đạt
nhưng muốn xuất sỹ thật không chút khó khăn. Song ông nhất thiết không hợp tác
cùng quân cướp nước. Ông ngấm ngầm rèn luyện tâm chí cho đàn hậu tiến để lo việc
phục thù cho non sông. Hoài bão của ông hình hiện nơi bài:
THUYỀN
QUA SÔNG
Đoàn
trước qua rồi đã mỏi tay
Đường
xa riêng sợ lớp sau này
Trương
buồm lướt sóng e chưa nổi
Thẳng
mái ra khơi ngại chở đầy
Lo
soát phải kèm tay lái bác
Biết
khôn cố giữ sợi neo thầy
Chờ
tan giông tố đường xưa lại
Kẻo
trẻ bơ thờ khắp đó đây.
Nhưng
cơ trời không xoay lại nổi, ông đành lấy thi ca vui sống cùng tháng ngày.
Ông
có tài xuất khẩu thành thơ, và thơ ông một đúc mà nên, nhưng lời văn già dặn,
ít khi có câu non chữ ép. Ông sở trường về lối thơ phúng thứ.
Thơ
ông sách báo xưa nay đã nói đến nhiều. Trước kia có Chương Dân Thi Thoại của
Phan Khôi và hiện nay có Giai Thoại Làng Nho của Lãng Nhân là hai quyển sách viết
công phu. Trong sách có nhiều thơ của Nhiêu Tâm, mỗi bài thơ đều được nói rõ về
nguyên nhân sáng tác.
Để
giúp bạn đọc nào chưa đọc hai quyển sách ấy, biết qua thi tài của ông Nhiêu
Tâm, tôi xin lục ra đây một đôi bài làm đại biểu:
GHẸO
CÔ GÁI BÁN CAU
Hỏi
cau ai bán tiếng ai rao
Tốt
vóc mà trong biết thế nào
Dấu
để trên buồng e đóng đục
Phành
ra trước mặt thấy ngon dao
Giốc
mua nên phải coi từ vú
Có
bán thì cho thử chút mào
Chuốt
ngót của mình ai dám chắc
Biết
lòng biết mặt xỉa tiền trao.
Bài
đó chỉ làm để bông đùa mua vui, chớ không phải để châm biếm, nên không có ý đau
độc. Chẳng khác nhát búa bủa vào đầu đương sự, bài VỊNH CỤC PHÂN sau đây:
Bao
tử là cha, mẹ: ruột dồi
Sanh
ra không chỗ để mày trôi
Chặt
chân chẳng nỡ thương thằng quáng [1]
Bụm
mũi mà qua gớm đứa bôi [2]
Thiếu
chó bắt mèo trông ngứa mắt
Chỉ
trê cùng chốt ngậm tràm môi
Lẫn
thay ông lão ngồi cầu quẹt
Chấp
chứa làm chi cái giống hôi.
Nguyên
một nhà giàu ở Vĩnh Long tên là bá hộ Nọn có nuôi một thầy đồ dạy con em trong
nhà. Một hôm ông Nhiêu đến chơi. Thầy đồ tỏ vẻ kiêu ngạo. Nhân nghe chủ nhà giới
thiệu ông Nhiêu là tay hay chữ giỏi Nôm, mới bảo ông làm thơ nghe thử. Ông
khiêm tốn xin ra đề. Thầy đồ buột miệng thốt: “Cục cứt”. Ông Nhiêu ứng khẩu đọc
ngay năm vần trên.
Trong
Giai Thoại Làng Nho, Lãng Nhân chép có đôi chỗ khác: về đầu đề thì chép là “Vịnh
cứt trôi sông”, về thân bài thì chép:
Bao
tử là cha, mẹ: ruột dồi
Đặt
không nên chỗ để mày trôi!
Trượt
chân chẳng nỡ thây nhằm đạp
Bịt
mũi mà qua đã gớm rồi
Thiếu
chó bắt mèo ngồi tạm nuốt
Có
tong cùng chốt rước theo mồi
Lạ
thay ông lão ngồi cầu quẹt
Chấp
chứa làm chi những giống hôi.
Chắc
Lãng Nhân cũng như tôi, nghe truyền sao chép vậy, chớ không thấy bản thảo của
ông Nhiêu để lại. Cho nên không dám quả quyết rằng mình chép y nguyên bản. Để
mua vui, thử biện bạch thị phi:
Về
đầu đề: Nếu đầu đề là “Cứt trôi sông” thì bài thơ thiếu ý. Bởi trừ câu thừa và
vế thứ hai câu luận ra, sáu câu kia đều thiếu ý trôi. Phép làm thơ hữu đề thì cả
tám câu phải luôn luôn đi sát với đề, nhất là cặp trạng.
Trước
khi hạ bút hành văn, người làm thơ phải xem kỹ coi cái thần của đề nằm ở chữ
nào. Trong đề “Cứt trôi sông”, cái thần nằm ở chữ “trôi”. Bởi “Cứt trôi sông”
khác với “Cứt nằm đất”. Thế là trong bài hầu hết các câu đều không ngậm ý
“trôi”. Như thế là không sát đề. Đã biết rằng thơ làm chơi không cần phải câu nệ,
miễn nói được những gì mình muốn nói thời thôi. Song phải nhớ rằng “không nên
câu nệ” đâu phải “bất chấp qui củ”, các cụ ngày xưa đối với thơ đâu có chấp nhận
việc “nai chạy đồng hoang”.
Theo
chỗ tôi được nghe truyền thì câu “để mầy trôi” ông Nhiêu ngụ ý nói mỉa ông Đồ:
Ông đồ vốn là người ở xa, vì thất nghiệp phải rời quê hương vào Vĩnh Long dạy học.
Gạt
bỏ hai chữ “trôi sông” ra khỏi đầu đề thì bài thơ không còn có chỗ chỉ trích, tức
là hoàn hảo.
Ông
Nhiêu Tâm ở miền Nam, cũng như ông Tú Xương ở miền Bắc, vì không thể đem tài
năng mình ra giúp ích cho nước nhà và lại nhìn thấy trong xã hội có nhiều hạng
người bất hảo nên sanh ra bất mãn, thường mượn văn chương để trút bớt nỗi khó
chịu trong lòng. Do đó mà thường làm thơ châm biếm.
Bên
cạnh thơ phúng thế ông Nhiêu cũng có nhiều thơ tình. Tôi được biết một bài:
KHÓC
VỢ
Cái
chuỗi sầu riêng xỏ chửa đầy
Hay
là bạn chết thế cho đây
Đống
xương tiết liệt vun trời đất
Giọt
máu cương thường thấm cỏ cây
Sông
Hán một năm còn thấy quạ
Non
Vu ngàn thuở khó trông mây
Suối
vàng hồn mẹ may mà gặp
Xin
ngỏ nhà ta nỗi nước này.
Cặp
trạng vừa nói về bà Nhiêu, vừa nói về nhiều người đàn bà đã bỏ mình trong thời
kháng chiến chống Pháp, vừa nói về lòng đau đớn riêng của ông đối với bà, vừa
nói đến nỗi thảm chung của nhân dân đối với đất nước.
Tình
ý trong bài thâm hậu, nhưng văn chương cũng như bài Thuyền Qua Sông, không nhu
nhuyễn lưu lợi bằng thơ phúng thứ là môn sở trường của ông Nhiêu.
***
PHAN
TỬ NHÀN, húy là Tiên, người Gò Công.
Tôi
chưa được rõ thân thế của ông như sao. Nhưng xem những bài thơ truyền tụng thì
đoán là người có tâm huyết với non sông mà bước đường đời gặp nhiều gian nan lận
đận:
TỰ
THÁN
Mưa
gió hôm mai khó liệu chừng
Đầy
vơi còn nỗi bận cho thân
Vách
thưa bóng ác không kiên mặt
Sâu
rậm người quen nhác để chân
Mụ
vợ than đau rơi nước mắt
Thằng
con làm nũng quẩn bên lưng
Ngẩn
ngơ cái phận làm nam tử
Trăm
việc không qua một chữ bần.
BI
THU
Rừng
phong nay đã nhuộm màu thu
Hỏi
lại hôm xuân đã biệt mù
Đống
tuổi chập chồng năm Giáp Ất
Lằn
thoi thấm thoát bóng tang du
Mãn
lo tháng tới hơn người trí
Sực
nhớ năm rồi sút kẻ ngu
Nam
tử lỡ mang lời với thế
Gắng
mà cho có chút công phu.
ĐÊM
TRĂNG CẢM HOÀI
Một
mình ngơ ngẩn giữa đêm trăng
Thầm
nghĩ hai vai gánh nặng quằng
Gây
nghiệp trẻ sau non mới đắp
Lấp
ơn người trước biển chưa bằng
Ba
mươi tuổi tác chau mày gấu
Nghìn
dặm non sông chắt lưỡi lằn
Cái
phận làm trai ngao ngán nỗi
Cao
xanh kìa hỡi thấu cho chăng?
QUA
CHỐN CŨ NHỚ NGƯỜI XƯA
Lối
cũ Thiên Thai viếng Ngọc Chân
Cỏ
hoa chào khách lạ trăm phần
Đờn
xưa lóng điệu nghe hơi gió
Đá
cũ quen chân lấp bợn trần
Khuyên
rượu thương người trưa bóng ác
Giăng
tay buồn lúc dạo vườn xuân
Tình
riêng quyên giục càng ngơ ngẩn
Đứt
nối lòng tơ biết mấy lần.
Văn
chương tao nhã, không mang tánh chất khô khan của các nhà thơ tiền bối [3].
Chất thơ đượm đà, nhạc thơ êm ái. Đọc thơ xong
còn hưởng được dư vị, dư âm.
Thơ
Tử Nhàn chắc còn nhiều. Ước ao được có thêm chừng mươi bài nữa để thưởng thức
cho được thỏa thuê.
***
Tôi
còn được nghe truyền một bài thơ mà giá trị văn chương không nhượng thơ Tử
Nhàn. Đó là bài CẢNH TIÊN CHÂU của Nguyễn Hữu Đức: 2
Tiên
Châu giăng trước Vĩnh Long thành
Đây
rộn rực người đó vắng tanh
Khuất
nửa cỏ cây nhà trắng trắng
Chia
đôi trời nước liễu xanh xanh
Đồng
quê ngày tháng ba thằng mục
Chùa
Phật hôm mai một tiếng kình
Danh
lợi ví như lòng chẳng tưởng
Năm
hồ trăng gió có ai tranh.
Nguyễn
Hữu Đức là ai, tôi chưa được may mắn biết rõ. Nhưng cũng như Phan Tử Nhàn, cách
điệu của thơ tình tứ trong thơ đã cho thấy rõ là một tâm hồn thơ phong phú. Nói
về mặt kỹ thuật thì Nguyễn Hữu Đức còn lão luyện hơn Phan Tử Nhàn.
Thơ
Nguyễn Hữu Đức cũng như thơ Phan Tử Nhàn là thơ tài tử, không còn chịu ảnh hưởng
nặng nề của lối thơ cử nghiệp.
Luật
thơ Đường đã được điển chế nghiêm mật. Khi đem dùng vào việc khoa cử lại còn bị
phiền phức hóa thêm bằng những chi tiết rắc rối để lung lạc đám sỹ tử, kiến người
làm thơ mãi lo giữ gìn cho đúng qui luật mà lắm khi xao nhãng nội dung. Do đó
thơ chỉ có xác.
Nhưng
người học thơ Đường luật mà không biết rành qui tắc của trường thi cũng không
được. Phải biết rõ những chỗ rắc rối, những chỗ khó khăn, để tránh né được dễ
dàng khi gặp phải. Chẳng những phải biết mà còn phải tập luyện cho thuần thục,
để có thể vứt bỏ khi cần vứt bỏ và áp dụng khi cần áp dụng, vứt bỏ và áp dụng một
cách thích đáng khi thấy có lợi cho thơ.
Trong
thơ cũng như ngoài đời, không có gì tuyệt đối tốt, cũng không có gì tuyệt đối xấu.
Xấu hay tốt tùy quan niệm tùy trường hợp, tức tùy người tùy lúc tùy nơi.
Và
học thơ cũng như học Đạo, không nên chấp sắc cũng không nên chấp không. Nghĩa
là không nên làm nô lệ cho thi pháp mà cũng không nên bỏ thi pháp. Phải thủ xả
tùy nghi.
Phan
Tử Nhàn và Nguyễn Hữu Đức nhờ biết tùy nghi nên đã sáng tác được những vần thơ
hay, những vần thơ đọc đi đọc lại mãi không chán.