Thơ
phúng thế xưa nay thường nhắm về mặt trái của xã hội.
|
Người
làm thơ mượn lời châm chọc, kích bác, trêu ghẹo, mỉa mai… với mục đích răn điều
lỗi, trị thói xấu.
Thơ
chia làm hai loại:
-
Châm phúng.
-
Trào phúng.
Châm
phúng nặng về giáo dục.
Trào
phúng nặng về hý lộng.
Một
bên trong giáo dục có hý lộng.
Một
bên trong hý lộng có giáo dục.
Thơ
châm phúng thường thường lời lẽ nghiêm khắc gắt gao, như thầy giáo quở học trò,
quan tòa kết tội kẻ phạm pháp.
Thơ
trào phúng, lời lẽ có phần êm dịu hơn, nhưng vị chua chát đắng cay, càng chíp
chắp càng thấm thía. Có thể bảo đó là bàn tay sắt bọc nhung, chén bòn hòn trộn
đường cát.
Những
bài thơ vịnh vật phúng thế đã trích dẫn ở các chương trước đây, hầu hết là thơ
châm phúng.
Và
đó là thơ châm phúng dùng thể tỷ.
Thơ
châm phúng dùng thể phú, tức là nói thẳng, nói trắng chớ không cần giá một nơi
đánh một nơi, tức là trực trần trực cáo, cũng rất thịnh hành trong làng thơ Việt
Nam. Sở trường nhất có lẽ là ông Tú TRẦN KẾ XƯƠNG.
Thơ
ông TRẦN nhiều khi rất độc.
Như
để “sửa lưng” một cậu ấm có bà mẹ bất chính mà hay lên mặt ta đây là con nhà
danh giá, ngày ngày điếu trắp xênh xoang, ông Tú có câu:
Thôi
đừng điếu trắp xênh xoang nữa
Thẳng
tiểu chùa Luông nó chửi mày.
Chú
tiểu chùa Luông
chửi cậu ấm là chửi bằng hành động chớ không phải chửi bằng ngôn ngữ. Việc chú
tiểu cụ thể hóa tiếng chửi thông thường bằng việc làm thật sự, ai ai cũng biết
nhưng không ai dám nói ra. Đến khi câu thơ của ông Tú ra đời, thì ai cũng đọc
ai cũng thuộc và hễ thấy cậu ấm đi qua là xúm nhau “phát thanh” để cười cợt chế
nhạo. Bị búa thanh nghị đập lên đầu, cậu ấm tỉnh ngộ, bà quan giật mình, nhà
chùa sảng sốt… Chú tiểu phải bỏ chùa, mẹ con cậu ấm phải dời nhà đi tìm nơi sám
hối.
Lại
có một người đàn bà mới ba mươi tuổi mà đã có đến bốn đời chồng. Cả bốn đều chết
sau khi ăn ở cùng vợ được ít lâu. Nhưng vì tuổi chưa thu, nên người đàn bà còn
sửa soạn còn trau tria như thời son trẻ. Thấy chướng mắt, ông tú viết một câu lục
bát dán nơi cửa bà ta:
Ba
mươi, bốn độ chôn chồng,
Còn
mong trang điểm má hồng chôn ai?
Người
đàn bà xấu hổ đang đêm lén dọn nhà đi nơi khác. [1]
Tác
động thơ châm phúng kể cũng đã mạnh!
Cụ
Tam Nguyên Yên Đỗ cũng thường làm thơ châm phúng. Như trong thơ Vịnh Kiều cụ có
câu:
Ba
mươi lạng bạc mà xong nhỉ!
Ngày
trước làm quan cũng thế a?
Lời
nhẹ nhàng nhưng ý thật cay đắng sâu hiểm. Té ra không phải chỉ thời nay mới có
nạn hối lộ, mà ngày xưa cũng không khác gì ngày nay! Và thời xưa, thời mà người
đời còn trọng liêm sỹ còn biết trọng lễ nghĩa, mà còn có nạn tham nhũng như
kia, huống hồ ngày nay là ngày phong hóa đã suy đồi, thì nạn tham nhũng hoành
hành biết bao nhiêu nữa! Mượn chuyện người trước để khuyến cáo người đương thời,
khuyến cáo một cách xa xôi kín đáo: Đưa tội lỗi cho người có lỗi thấy để tự sửa
chữa lấy, chớ không bắt buộc phải sửa chữa theo ý mình.
Mà
Yên Đỗ nhắm vào ai?
Nếu
tôi không lầm thì nhắm vào viên quan Tuần Vũ Hưng Yên là LÊ HOAN, người đã tổ
chức cuộc thi Vịnh Kiều mà người chủ trì là cụ Nguyễn Khuyến và cụ Dương Lâm,
còn người trúng giải nhất là ông Chu Mạnh Trinh. [2]
Nhưng
riêng gì Lê Hoan mới đáng chỉ trích. Từ khi thực dân Pháp đặt nền đô hộ lên
toàn cõi Việt Nam, những sỹ phu có tâm huyết cùng quốc gia dân tộc thì náu mình
giữ tiết, những kẻ xuất sỹ hầu hết là phường bôn xu danh lợi chỉ lo việc vinh
thân phì gia. Do đó mà tham quan ô lại mỗi ngày mỗi thêm đầy nhẫy trong Chánh
quyền. Cụ Yên Đỗ nhân dịp Lê Hoan mở cuộc thi Vịnh Kiều, bèn mượn đem làm đại
biểu cho toàn thể quan lại.
Đối
với cậu ấm, với cô gái góa là người ít học, ông Tú Xương phải nói rõ cho dễ lọt
vào tai. Còn đối với đám tham ô có học, cụ Tam Nguyên Yên Đỗ nghĩ rằng chỉ đánh
khẽ cũng đủ làm cho giật mình.
Song
không phải lúc nào cụ Yên Đỗ cũng nhẹ nhàng kín đáo như thế đâu. Lắm lúc giọng
thơ cũng xẳng lắm. Như để trả đũa ông án Chu tặng cụ một chậu trà là thứ hoa có
sắc không hương trong lúc cụ đã mù, cụ có câu: [3]
Lâu
nay ta chỉ xem bằng mũi
Đếch
thấy hơi hương một tiếng khà!
Mượn
hoa trà hữu sắc vô hương để chê họ Chu hữu tài vô hạnh. Thật đau độc! Song vẫn
còn bóng gió. Xát muối vào mặt đối phương không chút vị nể, thì như bài:
TẶNG HÀ NAM TỔNG ĐỐC
TRẦN
Ai
rằng ông dại với ông điên
Ông
dại sao ông biết lấy tiền
Cậy
cái bảng vàng treo nhị giáp [4]
Khoét
thằng mặt trắng lấy tam nguyên [5]
Dấu
nhà vừa thoát sừng trâu đỏ [6]
Phép
nước không chừa móng lợn đen [7]
Chỉ
cốt túi mình cho nặng chặt
Trăm
năm mặc kệ tiếng chê khen.
Không
được rõ quan Tổng Đốc họ Trần kia là ai, cũng không rõ vì sao cụ Yên Đỗ lại nặng
lời thóa mạ như thế. Song qua văn chương cũng đoán biết được rằng:
Họ
Trần thi đỗ đến Đại khoa và làm quan đến Tổng Đốc, đáng lẽ biết trọng nhân phẩm
biết quí thân danh. Nhưng vì vốn con nhà hạ tiện may phước làm nên, lại được
Pháp tín dụng, nên sẵn quyền sẵn thế lo vơ vét cho đầy túi tham. Tiếu mạ mặc
ai, cứ giả bộ điên điên dại dại. Nhân dịp họ Trần đè đầu một bạch diện thư sinh
nào đó để ăn hối lộ ba đồng bạc, cụ Yên Đỗ thấy con người bất cố liêm sỹ, không
thể chịu nổi mới làm thơ đả kích kịch liệt hầu mong có hồi tâm.
Nhưng
có người cho biết:
-
Họ Trần đây là TRẦN ĐÌNH TÚC làm Tổng Đốc Hà Nam rồi thăng Tổng Đốc Hà Nội. Khi
cụ Yên Đỗ mới đậu Tam Nguyên (1871) về tỉnh nhà (Hà Nam) bị Trần Tổng Đốc cậy
quyền hiếp đáp, tức mình làm thơ chống lại.
Và
câu thứ tư bài thơ chính là: Hiếp
thằng mặt trắng đỗ tam nguyên.
Câu
chuyện có thể tạm tin, nhưng câu thơ không thể chấp nhận. Bởi “thằng mặt trắng”
do chữ “bạch diện thư sinh” mà ra, mà Bạch diện thư sinh là người học trò chưa
đỗ đạt
chi cả, như thế đem “đỗ tam nguyên” ghép cho “thằng mặt trắng” thì khác gì lấy
mâu
đâm vào thuẫn để thuẫn hất mâu ra.
Lấy
TAM NGUYÊN là cấp bậc khoa bảng mà đối với NHỊ GIÁP thì thật là xứng đào xứng
kép. Song sao lý thú và thâm độc bằng dùng TAM NGUYÊN là ba đồng bạc. Bởi đem
BA ĐỒNG BẠC TRẮNG đối với BẢNG VÀNG NHỊ GIÁP là ngụ ý nhủ thầm rằng cái Bảng
vàng của quan Tổng Đốc giá trị ngang với ba đồng bạc trắng của chàng bạch diện
thư sinh.
Tấm
thân xiêm áo sao mà nhẹ?
Cái
giá văn chương ấy mới hời! [8]
Trong
Văn Đàn Bảo Giám, câu thứ sáu trong câu ấy chép là:
Phép
nước xin chừa móng lợn đen.
Không
hiểu thủ nghĩa như sao, song nhận thấy lời thơ không tiếp liền với câu thứ bảy
thứ tám, nên không dám tin ở sách chép mà tin ở miệng truyền, để cho mạch văn
được thông ý thơ được thuận:
-
Quan lớn mới từ nơi hạ tiện bước ra, tánh xấu chưa đổi, lại nhờ có thế lực của
thực dân là là bọn đê hèn như lợn, nên bất chấp dư luận, chỉ cốt lo cho nặng
lưng chặt túi mà thôi.
Trong
bài thơ, câu thứ năm bồi ý cho câu thứ ba, câu thứ sáu bồi ý cho câu thứ tư và
chuyển ý xuống câu bảy tám để hồi cố lên khởi thừa.
Ý
độc địa văn đanh thép.
Nếu
quan Tổng Đốc họ Trần mặt chưa lấy làm dày, xương chưa đến nỗi đã lạnh, thì khi
tiếp được bài của Yên Đỗ gởi tặng chắc phải toát mồ hôi trán như khi Tào Tháo đọc
bài hịch của Trần Lâm.
Thơ
châm phúng của cụ Tam Nguyên Yên Đỗ thua thơ ông tú Trần Tế Xương về giọng sắc
bén nhưng hơn về điểm sâu sắc độc địa. Song cả hai đều phải nhượng bà HỒ XUÂN
HƯƠNG. Bài VỊNH QUẠT của bà Hồ, nhất là câu:
Mát
mặt anh hùng tắt gió
Che
đầu quân tử lúc sa mưa.
Văn
chương đã lên đến bậc thượng thừa. Cả thơ Quốc âm lẫn thơ Hán văn, cả thơ Việt
Nam lẫn thơ Trung Quốc, chưa thấy bài nào có thể sánh vai.[9]
Còn
các nhà thơ khác, từ đời Trần đến nay, hầu hết đều có thơ châm phúng, kẻ nhiều
người ít và có bài được truyền có bài không được truyền. Cho nên thơ châm phúng
trong làng thơ Quốc âm không đến nỗi hiếm.
Xin
lục đôi bài nữa:
VỊNH
CON TÔM
Loài
ở lộn bùn cũng mọc râu
Ngo
ngoe nỏ biết mốc gì đâu
Cong
lưng cứ ỷ tài đâm bắn
Lố
mắt khôn dò lạch cạn sâu
Ngoài
ủ xum xoe càn múa gọng
Trong
oi co quắp đít ngang đầu
Giỡn
rồng ta bảo đứng quen thói [10]
Một
nhủi là xong, lọ tát câu.
Tác
giả là chí sỹ TRẦN CAO VÂN. Chí sỹ mượn con tôm để châm biếm bọn võ quan tay
sai của Pháp, cậy thần thế xem thường cả vua.
Thời
Pháp thuộc là thời mà nền đạo đức cũ đã bị phá đổ, nền đạo đức mới chưa được
xây nên, khiến xã hội sanh nhiều cảnh chướng mắt. Các nhà thơ không thể dằn
lòng công phẫn. Nhưng để tránh nanh vút cường quyền, họ phải dùng lời bóng bẩy
quanh co, giá một nơi đánh một ngả. Kẻ có tật sau khi giật mình, muốn buộc tội
kẻ thù không thể vin vào đâu để mà buộc. Cho nên thời Pháp thuộc, thơ vịnh vật
ngụ ý châm biếm sản xuất nhiều hơn bao giờ hết.
Chẳng
những họ ngụ ý châm biếm trong các vật mà còn lồng vào lối chơi chữ một cách
tinh vi. Như mừng cụ Hoàng Cao Khải ăn lễ thất tuần:
Vượng
khí Lam Hồng đúc vỹ nhân
Trời
ban thêm tuổi chúa thêm ân
Huân
danh sự nghiệp: Hiến Thành Lý
Phú
quý vinh ba: Nhật Duật Trần
Con
cháu một nhà hai tổng đốc
Pháp
Nam hai nước một công thần
Tuần
này hạ thọ là tuần bảy
Còn
biết sau đây mấy chục tuần!!
Cụ
Hoàng Cao Khải vốn người Hà Tĩnh, đậu cử nhân, nhờ công đánh dẹp các cuộc kháng
Pháp của Văn thân mà bước công danh lên đến tột bậc. Con cháu đều làm quan to.
Hai người con trai làm đến Tổng Đốc.
Kể
cũng đã thật hiển hách.
Nhưng
cũng như Nguyễn Thân, Trần Bá Lộc, họ Hoàng từ xưa đến nay luôn bị búa rìu
thanh nghị.
Cho
nên đem sánh họ Hoàng cùng Tô Hiến Thành, Trần Nhật Duật, là hai bậc trung thần
đời Lý đời Trần, tài cao đức cả, danh thơm còn để muôn đời, thì chẳng khác khen
một người sức trói gà không chặt, học chưa biết chữ nhất mấy ngang, là lực
ngang Hạng Võ, tài sánh Đông Pha. Đó là mỉa mai, là châm chích, mỉa mai châm
chích theo lối để sắc trắng bên sắc đen, đặt Dương Quí Phi cạnh Chung Vô Diệm.
Để
cho độc giả dễ nhận thấy điểm dụng ý (lời xuôi ý ngược) trong câu thơ, tác giả
dùng phép đảo ngữ: Lý Hiến Thành nói là Hiến Thành Lý, Trần Nhật Duật nói là Nhật
Duật Trần.
Ý
phúng thích ở câu luận lại càng sâu sắc hơn:
Pháp
Nam hai nước một công thần.
Theo
danh giáo thì Trung thần bất sự nhị quân. Thế mà họ Hoàng lại là công thần của
hai nước Pháp Nam, thì lòng trung đâu còn là một? Mà lòng trung không duy nhất
thì đâu còn có thể gọi là trung thần?
Câu
này làm cho ý châm phúng trong câu trạng thêm rõ.
Con
người như thế mà gọi là vỹ nhân, mà cầu chúc trời thêm tuổi thọ, thì thật là
hài hước!
Cụ
Hoàng Cao Khải là người giỏi thơ Quốc âm, đọc bài thơ Mừng thọ kia chắc là xốn
xang tâm bào lắm, nhưng chắc cũng phải khen thầm là văn chương già dặn sâu sắc.
***
Vì
là “công thần hai nước” nên Hoàng Cao Khải được chính quyền Pháp cắt một vùng đất
lớn ở ngoại ô Hà Nội cấp cho làm thái ấp để làm nơi hưu dưỡng, gọi là ấp Thái
Hà. Nhân họ Hoàng có bài thơ Vịnh Thành Cổ Loa [11],
một thi nhân phỏng theo bài vịnh sử đó làm một bài Vịnh ẤP THÁI HÒA:
Thái
ấp mây mờ cỏ lẫn rêu
Pháp
Nam trung tín cả hai triều
Hòa
thân trót đã lầm hai chữ [12]
Ân
oán xui nên đủ mọi điều
Nước
Việt dẫu rằng cơ tạo đổi
Làng
Tơ như có nợ tình đeo [13]
Hưng
vong biết chửa anh Tường Thuyết
Hục
hặc bao nhiêu chết bấy nhiêu. [14]
Mượn
lời người để phúng thích người bằng cách sửa đổi một đôi chữ cho thích hợp hoàn
cảnh, như bài trên, thì thật là tài tình. Mượn gậy ông đập lưng ông, người đập
đã sướng tay, mà người bị đập vừa đau lại còn vừa tức, tức cho mình sơ hở để
người có thể thừa cơ.
Có
người bảo rằng thơ vịnh sử của Hoàng Cao Khải nhiều bài ký thác tâm sự. Bài Vịnh
Thành Cổ Loa tác giả có ý hối hận về việc phủ dụ Phan Đình Phùng và việc hòa
thân Pháp Nam bằng cách làm công thần cả hai nước, đồng thời biện bạch rằng
mình hành động như thế là do lòng thành tín chớ không phải vì lợi danh.
Nếu
quả đúng như thế thì ý châm phúng bài phóng tác trên đánh vào tâm hồn họ Hoàng
lại càng thêm mạnh mẽ, càng thêm sâu sắc.
Hoàng
công thần có người ái cơ ở làng Tơ, lại có một người thứ thất ở làng Bông. Nhờ
đó mà tên hai làng được vào văn chương. Làng Tơ đã vào thơ Vịnh Ấp Thái Hà. Còn
làng Bông thì phải đợi đến ngày bà thứ thất qua đời mới len vào thơ tả đám
tang.
Đám
tang bà thứ thất làng Bông tổ chức cực kỳ long trọng. Đưa đám có cả quan Toàn
Quyền Đông Dương, quan Thống sứ Bắc kỳ và các nhà tai mắt tỉnh Nam Định (nơi
Hoàng Mạnh Trí làm Tổng Đốc) tỉnh Hà Đông (nơi Hoàng Trọng Phu ngồi Tổng Đốc).
Người xa gần đến xem chật cả đướng sá.
Nhà
thơ PHAN ĐIỆN quán Hà Tịnh có thơ ĐÁM TANG BÀ BÔNG rằng:
I
Hỏi
đám nhà ai ấp Thái Hà?
Người
xem nô nức khắp gần xa…
Toàn
quyền Thống sứ nâng tay cụ
Nam
Định Hà Đông nể mặt cha [15]
Xe
điện đông nêm người tứ xứ
Vòng
hoa để chật bãi tha ma [16]
Tàu
bay nghiêng cánh bay qua lại
Cái
gái làng Bông sướng dữ a!
II
Thay
cả quốc dân khóc cụ bà
Non
sông nay chỉ thấy ông già
Biết
bao đau đớn người Nam Việt
Há
những xôn xao đất Thài Hà
Lầu
đá ngàn năm tơ tưởng ngọc
Cầu
ô một dải ngậm ngùi hoa
Khen
con cháu cụ nhà gia pháp
Cụ
nghĩ làm sao phải đạo cha!
Cũng
thì nhắm vào một người, mà bài VỊNH ẤP THÁI HÀ cũng như bài MỪNG THỌ THẤT TUẦN
thuộc loại thơ châm phúng, còn bài thơ ĐÁM TANG BÀ BÔNG thứ I thuộc loại thơ
trào phúng.
Bài
này thuộc loại thơ trào phúng vì thiên về hý lộng tức bông đùa trêu cợt.
Đến
bài ĐÁM TANG thứ II thì giọng đùa cợt lẫn giọng châm chích mỉa mải, lại còn ngậm
ý răn dạy là khác.
Chua
chát và đau độc nhất là câu kết:
Khen
con cháu cụ nhà gia pháp
Cụ
nghĩ làm sao phải đạo cha ?
Đó
là một cách nói mà người bình dân gọi là “nói mắc”, nói “đâm họng”. Vì đã con
cháu nhà gia giáo mà còn bảo “làm sao phải đạo cha”.
Nhưng
ai có biết việc quan Tổng Đốc Nam Định đánh quan Tổng Đốc Hà Đông trước mặt
Duyên Mậu công Hoàng Cao Khải trong dịp đám tang bà Bông, thì mới thấy chỗ sâu
cay độc địa của câu thơ.
Bài
Đám Tang thứ nhất, giọng thơ mỉa mai, nhưng ý thơ không thâm độc.
Bài
thứ nhì, giọng có vẻ dịu dàng xinh xắn nhưng ý vừa độc vừa thâm.
Cho
nên bài I là thơ trào phúng mà bài II là thơ châm phúng vậy.
Mà
chia ra châm phúng trào phúng là chia để cho dễ nói chuyện với nhau mà thôi. Chớ
ranh giới giữa hai bên không được như ranh giới giữa Trung Quốc và Việt Nam đã
có thiên thư định phận và có núi cao ải vững chắn ngăn, mà chỉ vạch một cách “mềm
dẻo” như ranh giới giữa Việt Nam và Cao Miên, tức là trên bản đồ thì chấm chấm
ngang ngang rành mạch, nhưng trên thực tế thì xích bên nay một chút hay xê bên
kia một chút, vẫn không ai nói năng chi. Song đó là lúc bình thời. Chớ nếu có sự
tranh chấp với nhau thì gây ra nhiều rắc rối.
Để
cho ranh giới giữa châm phúng và trào phúng được rõ ràng thêm phần nào, tưởng
nên thêm vào lời phân định trên kia một vài điểm nữa:
-
Trào phúng lấy trêu cợt làm đầu.
-
Châm phúng lấy chỉ trích làm gốc.
-
Trào phúng làm cho người có tật giật mình.
-
Châm phúng làm cho người có tật tím ruột.
Về
châm phúng thì cụ Tam Nguyên Yên Đỗ và ông Tú Vỵ Xuyên nhượng bà Hồ Xuân Hương,
như trên kia đã nói.
Nhưng
về trào phúng thì không một nhà thơ nào có thể sánh với hai nhà, bên lượng cũng
như bên phẩm.
Nói đến thơ trào
phúng của Yên Đỗ, khách phong tao thường nhắc đến bài HỎI THĂM BẠN MẤT CƯỚP:
Tôi
nghe kẻ cướp nó lèn ông
Nó
lại lôi ông đến giữa đồng
Lấy
của đánh người quân tệ nhỉ!
Xương
gà da cóc có đau không?
Bây
giờ mới thấy sầy da trán
Ngày
trước đi đâu mất mảy lông
Thôi
cũng đừng nên ky cóp nữa
Kẻo
mang tiếng dại với phường ngông.
Người bạn bị mất cướp
của cụ Yên Đỗ là một quan Tuần hưu trí quê ở Châu Cầu. Quan Tuần tánh hà tiện,
tiền của có đó mà không dám tiêu. Lúc về vườn dồn được một số bạc kha khá. Quân
gian biết được bèn đến bắt khảo của. Cụ Yên Đỗ được tin gởi thư trêu cợt. Quan
Tuần đáp lại:
Ông
hỏi thăm, tôi cảm ơn ông.
Nó
có lôi tôi đến giữa đồng…
Những
tưởng vun thù phòng lúc thiếu,
Ai
ngờ cóp nhặt cũng như không!
Chém
cha thằng quỉ đen tai mắt,
Chẳng
nể ông già bạc tóc lông!
Ông
muốn khuyên tôi…, tôi biết vậy,
Thương
ông tuổi tác cháu thì ngông. [17]
Đó
là lời hai ông bạn già đùa nhau. Quan Tuần Châu Cầu bị cụ Yên Đỗ cười là dại. Cụ
Yên Đỗ nghèo mà lại phóng túng nên bị quan tuần chê là ngông. Cười chê để bỡn cợt
chớ không có ác ý. Nhưng chíp chắp giây lâu thì thấy hơi cay cay, nhất là bài của
Yên Đỗ, nhưng là chất cay của gia vị, nên không chạm đến tình bạn mà chỉ làm
tăng thú cho văn chương.
Cho
nên hai bài trên có thể coi là thơ hài hước.[18]
Có thể tiêu biểu
cho thơ trào phúng là bài VAY NỢ SƯ KHÔNG ĐƯỢC của ông Tú Vỵ Xuyên:
Ông
bám ông ăn đứa trọc đầu!
Đầu
không có tóc bám vào đâu?
Nghĩ
mình nghiện nặng cho nên kiết;
Đành
nó ăn chay ý hẳn giàu.
Một
vốn bốn lời mong có lãi,
Năm
liều bảy lĩnh cũng không câu.
Thế
mà không được buồn cười nhỉ!
Không
được thì ông lại xuống tàu.
Một
anh nghiện vay nợ một nhà sư! Rõ là một hài kịch trên trường đời, một bức hí họa
bằng xương thịt. Với ngọn bút sắc sảo của ông tú Vỵ Xuyên, bức họa sống động
trên mặt giấy, vở kịch tẩm dầm nhiều vị chua chát đắng cay.
Ông
tú Vỵ Xuyên đối với cụ Tam Nguyên Yên Đỗ là hàng hậu bối. Xem thơ ông Tú cụ Tam
Nguyên nói:
- Kế dư chi hậu nhi Xương hồ.
Nghĩa
là “Sau này nối ta là anh Xương vậy”.
Cụ
Yên Đỗ và ông Vỵ Xuyên từ Bắc chí Nam ai ai cũng biết danh. Thân thế của hai
nhà cũng như thi nghiệp đã được nhiều sách nói đến.
Trong
làng thơ Quốc âm còn nhà thơ phúng thế có tài, ngoài cụ Tam Nguyên và ông Tú.
Những văn chương không được phổ biến nên sau những cuộc đổi thay trong nước,
người yêu thơ chỉ còn giữ được một vài phần trăm. Như trường hợp ông Huyện Nẻ
là một.
HUYỆN
NẺ là tên bình dân của ông NGUYỄN THIỆN KẾ vì ông là người làng Nễ Đô tục gọi
là làng Nẻ thuộc tỉnh Hải Dương, và đậu cử nhân làm quan đến chức tri huyện.
Ông là anh rễ Tản Đà tiên sinh và cũng chính là người đã khuyến khích nhà thơ
sông Đà núi Tản bước vào đường văn chương.
Ông nổi tiếng về
thơ phúng thế. Thơ ông phần nhiều nhắm vào đám qua trường tham ô, vào đám người
có địa vị cao trong xã hội mà không biết trọng phẩm cách. Ông kịch liệt đả kích
những thói hư tật xấu, nhiều khi đi đến chỗ thóa mạ nặng nề mất phong độ của
làng tao nhã. Cho nên thơ ông hầu hết thuộc về loại châm phúng. Có thể coi là
thơ trào phúng, bài VỊNH TRI PHỦ VĨNH TƯỜNG CÕNG ĐẦM:
Thằng
cha phủ Vĩnh thế mà thâm!
Nịnh
bố cu Tây cõng mẹ đầm.
Đôi
vú ấp tai đầu nghễnh nghễnh,
Hai
tay bưng đít mặt hầm hầm… [19]
Cũng
may cứng cánh nhờ ơn tổ,
Nếu
rủi sa chân chết bỏ bầm. [20]
Chẳng
kể mề đay cùng tưởng lục
Ngửi
tay tủm tỉm miệng cười thầm. [21]
Tác
giả không có ý mạ lỵ viên tri phủ. Thấy việc vui mắt thuật lại cho vui vậy
thôi. Cho nên giọng thơ không gay gắt, người bị trêu chọc tuy xốn ý, nhưng chắc
“tủm tỉm cười thầm” chớ không thù hằn, căm tức.
Đề
tài mang nhiều chất hài hước, song vì câu văn không có duyên, nên người đọc
không lấy làm thích thú. Đó là món ăn ngon nhưng nấu không được khéo, khiến vị
không quyến rũ được khách ưa khẩu khoái tâm.
Không ai không
thích thú, không mấy ai có thể nhịn cười được, khi đọc bài VỪA VĂN VỪA RẮM của
ông tú NGUYỄN KHÁNH DOANH ở Nam Định:
Phương
xú lưu gì ở thế gian,
Vừa
văn vừa rắm hỡi anh Đoan?
Vẽ
voi thế cũng đòi thi cử!
Khéo
nhỉ! Sao mà vãi ruột gan?
Làm
mất tiếng thơm cho đất Bắc!
Thẳng
đưa hơi thúi đến Trường An!
Vô
duyên cái mũi Hồ Quang Bí,
Ngửi
rắm lâu ngày phải hỏng oan!
Nguyên
dưới triều Thành Thái (1889-1907), một năm các cử tú miền Bắc vào Huế thi Hội,
trong đó có ông tú Nguyễn Khánh Doanh và ông cử Trịnh Văn Đoan. Vào trường thi,
ông cử Đoan bị dở bụng…, làm cho ông cử Hồ Quang Bí người Trung, ngồi bên cạnh
không chịu nổi phải kêu trời! Thi xong treo bảng, người Bắc bị hỏng nhiều mà
ông cử Hồ cũng chung phậm hẩm! Về quán trọ các vị hỏng thi cho chuyện Đoan Bí
là một giai thoại trường thi, và thách nhau làm thơ, lấy đề “vừa làm văn vừa
đánh rắm” và hạn vận “Đoan”. Bài ông tú Doanh được chấm đậu hạng nhất.
Văn
thật già, phép thật vững! Lấy việc lưu phương lưu xú mà mở đề, để thừa ý đi vào
sát chỗ quan yếu, rồi cứ một câu thì văn một câu thì rắm, giải thích đề tài một
cách chỉnh túc và linh động. Lại dùng ông Cử Đoan để khai mạc, ông cử Hồ để bế
mạc. Rõ là tay lão luyện và tài ba. Ông Đoan và ông Bí bị đem ra chế giễu, nếu
có bực tức thì cũng bực tức trong giây phút rồi nguôi, vì bài thơ chỉ có tánh
cách bông đùa chớ không có ác ý, lại thêm văn chương quí giá, lẽ nào lại không
bình tâm để thưởng thức những gì gởi gắm trong lời văn thoát sáo và có duyên.
Bài
của ông Huyện Nẻ, đề tài tục mà văn cũng tục. Bài ông Tú Doanh, đề tài tục mà
văn lại thanh. Nói về giá trị văn chương, thì bài ông Tú hơn bài ông Huyện.
Nhưng về giá trị lịch sử, thì bài ông Huyện là một tài liệu rất quí vì phản chiếu
cho người đời nay thấy lại được phần nào tư cách của đám quần thần thời Pháp
thuộc.
***
Phần
đông các nhà thơ phúng thế thường lấy cá nhân, lấy những trường hợp lẻ tẻ…, làm
đề tài ngâm vịnh. Chỉ trích những thói hư tật xấu chung của xã hội…, phê bình một
cách tổng quát những nhân vật bất hảo của thời đại.., thì trước kia có NGUYỄN BỈNH
KHIÊM, gần đây có NGUYỄN CÔNG TRỨ.
Thơ
của hai nhà đã được nhiều sách sưu tập, nhiều tay biên khảo khai thác. Nên ở
đây chỉ xin trích dẫn một ít để làm chứng cứ mà thôi:
-
Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm:
+ Những buổi đắc thời mèo đuổi chuột
Đến
khi thất thế kiến tha bò.
+
Chữ vị là vì biếng nói năng
Há
rằng chẳng biết việc nên chăng
Nhá
rau lại tiếc mùi canh ngọt
Nếm
ếch còn thăm có giống măng
Vuốt
mặt còn chừa qua mũi nọ
Rút
dây lại né động rừng chăng?
Dù
ai nghị luận điều lành dữ
Chữ
vị là vì biếng nói năng.
+
Mâm thịt mỡ bùi ruồi đến đỗ
Chén
bòn hòn đắng kiến đâu bò.
+
Trước đến tay không nào đón hỏi
Sau
vào gánh nặng lại vui cười. [22]
-
Thơ Nguyễn Công Trứ:
+
Lúc ghét dệt thêu ngay hóa vạy
Khi
thương tô diểm méo nên tròn.
+
Hễ không điều lợi khôn thành dại
Đã
có đồng tiền dở hóa hay. [23]
+
Tiền tài hai chữ son khuyên ngược
Nhân
nghĩa đôi đường nước chảy xuôi. [24]
+
Cho hay trống thủng có làng bưng
Đã
dễ rồi còn muốn dễ dưng!
Mặc
sức đâm thùng và tháo đáy,
Tha
hồ tráo đấu lại lường thưng.
Khéo
đem muối nọ toan gieo biển,
Nghĩ
rút dây kia sợ động rừng.
Xấu
máu xin đừng ăn của độc,
Rượu
làng thời uống rượu mua đừng. [25]
Thơ
phúng thế thiên về lý trí và thường thường nhắm vào mặt trái của sự vật, của xã
hội. Nên câu thơ thường cứng, giọng thơ thường gắt, vị thơ thường khô, khó làm
cho người đọc nghiêm khắc thích mắt sướng miệng khoái lòng.
Đối
với thơ phúng thế, các nhà thơ thuần túy, các bạn ưa thơ thuần túy cũng “kính
nhi viễn chi”.
Nhưng
đời đâu phải chỉ gồm những người chỉ ưa cái Trong, cái Đẹp.
Huống
nữa nếu đừng chấp tha chấp ngã, mở rộng cõi lòng mà đón lấy tất cả những di sản
tinh thần của ông cha để lại, thì:
Cảnh
cũ vẫn còn non nước cũ
Chốn
nào là chốn chẳng xuân phong. [26]
[1] Về thơ Tú Xương đã
nói nhiều ở chương 28, ở đây chỉ lặp lại đôi điểm cần thiết và nói qua đôi điểm
chưa đề cập.
[2] Đã nói rõ ở chương
22, 23.
[3] Xem trọn bài ở chương
23 - Ở đây chỉ trích câu kết.
[4] Nhị giáp: khoa cử có
từ đời Lý, năm Ất Mão niên hiệu Đại Ninh thứ 4 (1075), nhưng qui chế chưa chặt
chẽ. Đến đời nhà Trần thi Thái Học Sinh (tức thi Tấn sỹ) mới bắt đầu chia làm
ba giáp: Đệ nhất giáp, thì có Trạng Nguyên, Bảng Nhãn, Thám Hoa. Đệ nhị giáp
gọi là Giáp bảng. Đệ tam giáp gọi là Ất bảng gồm những người trúng tuyển từ
Hoàng Giáp trở xuống. Sang triều Lê phép thi mới định lại một cách rõ ràng chặt
chẽ. Ở các Đạo thì mở khoa thi Hương. Ở Kinh đô thì mở khoa thi Hội. Cứ ba năm
mở khoa một lần. Đến niên hiệu Hồng Đức thứ 15 (1484) đổi Trạng Nguyên, Bảng
Nhãn, Thám Hoa gọi là Tiến sỹ cập đệ; Chánh bảng (tức là Giáp bảng) gọi là tiến
sỹ xuất thân; Phó bảng (tức Ất bảng) gọi là Đồng tiến sỹ xuất thân. Từ đó thi
Hương có bốn trường, thi Hội có 3 giáp: Đệ Nhất Giáp Tấn sỹ cập đệ, Đệ Nhị Giáp
Tiến sỹ xuất thân, Đệ Tam Giáp Đồng Tiến sỹ xuất thân. Qua triều Nguyễn còn
thay đổi nhiều ít nữa: Bỏ Trạng Nguyên. Người trúng tuyển Đệ Nhị giáp gọi là
Hoàng giáp, dưới Hoàng giáp là Tấn sỹ (Giáp bảng) và Phó bảng (Ất bảng). (Phó
bảng là người thi Hội được đủ số điểm nhưng không được vào thi Đình).
[5] Tam nguyên: Ba đồng
bạc. Mặt chữ giống y Tam Nguyên là người đỗ đầu cả ba kỳ thi Hương, Hội, Đình.
[6] Sừng trâu đỏ: Trong
luận ngữ có câu: “Lê ngưu chi tử tuynh thả dác, tuy dục vật dụng, Sơn xuyên xả
chư”. (Con của giống trâu vằn mà sừng đỏ, tuy người có ý không muốn dùng, song
Thần Sơn Xuyên há bỏ ư). Đó là lời đức Khổng Tử nói để an ủi thầy Trọng Cung.
Thầy
Trọng Cung là một bậc hiền nhân, song ông thân sinh là kẻ hạ tiện lại hay làm
điều quấy, người đời đàm tiếu. Đức Khổng Tử bác đi. Đại ý nói: Thầy Trọng Cung
cũng như con trâu vằn nghé có sừng đỏ kia, tuy con nhà hạ tiện song đạo đức cao
trọng. Kẻ phàm phu không biết xem thường, nhưng kẻ thức giả vẫn trọng vọng.
Trong bài, Tam Nguyên
Yên Đỗ dùng về nghĩa xấu, ngụ ý bảo rằng quan Tổng Đốc họ Trần kia vốn con nhà
hạ tiện xuất thân.
[7] Móng lợn đen: Súng
lục liên, vì súng lục hình giống giò lợn.
Tác giả dùng súng lục để tượng trưng cho
quyền lực của Pháp, vì thời bấy giờ chỉ có người Pháp và người Việt được Pháp
tin dùng mới được dùng súng lục.
[8] Câu luận thơ Vịnh Ông
Nghè Tháng Tám của cụ Yên Đỗ.
[9] Đã nói về thơ Hồ Xuân
Hương ở chương 9, nên ở đây chỉ nhắc qua về điểm châm phúng.
[10] Thơ xưa có câu: Rồng
nằm nước cạn tôm lờn mặt
Cọp xuống đồng bằng chó ngoắc đuôi.
Biển
tê trăng lặn nước dâng triều
Hòa
thân trót đã lầm hai chữ
Ân
oán xui nên đủ mọi điều
Qui
thảo dẫu rằng cơ tạo đổi
Nga
mao như có nợ tình đeo
Hưng
vong biết chửa người thiên cổ
Thành
tín bao nhiêu dối bấy nhiêu.
[12] Tường, Thuyết chủ
trương chiến, Hoàng chủ trương hòa.
[13] Làng Tơ là quê quán
người ái cơ của họ Hoàng. Người này đã gây nhiều ân oán trong dân gian làm cho
họ Hoàng đã mang tiếng thêm mang tiếng.
[14] Ý nói Nguyễn Văn
Tường, Tôn Thất Thuyết chủ trương chống Pháp đều bị thất bại, sao bằng họ Hoàng
chủ trương hòa thân để làm tôi trung tín cả hai triều Pháp Nam, làm quan đến
tột phẩm lại được có thái ấp dưỡng hưu.
[15] Vì bà Bông không phải
mẹ đẻ của hai quan Tổng Đốc Nam Định (Hoàng Mạnh Trí) và Hà Đông (Hoàng Trọng
Phu). Hai quan nể mặt cha mà về dự tang lễ đó thôi.
[16] Trong Giai Thoại Làng
Nho thấy chép là: “Ô tô để chật…”
[17] Quan Tuần phần bị mất
cướp phần bị bạn trêu mà vẫn không bực tức. Lời thơ thản nhiên và vui đùa một
cách nhẹ nhàng lý thú. Nếu là người keo kiết thì bụng dạ hẹp hòi, làm gì có
được những lời dễ thương như thế.
[18] Về thơ hài hước sẽ
nói rõ ở đoạn sau.
[19] Mặt hầm hầm vì đầm
nặng phải ráng sức bình sanh chớ không phải vì giận.
[20] Tiếng thổ âm, nghĩa
là mẹ.
[21] Trong Giai Thoại Làng
Nho, Lãng Nhân có lục đăng nhiều bài và có kể nhiều câu chuyện lý thú.
Thơ ông Huyện cũng có nhiều bài
thanh nhã. Nhưng ở đây chỉ nói về thơ phúng thế và chỉ dẫn một bài trào phúng.
[22] Thơ Nguyễn Bỉnh
Khiêm, những bài ca tụng cảnh nhà cũng như những bài nói về nhân tình thế thái,
đều không có đề.
[23] Thơ Nguyễn Công Trứ
đều có đề. Hai cặp trên, một ở trong bài TRÒ ĐỜI, một ở trong bài THÓI ĐỜI.
[24] Trích trong bài NGÁN
CUỘC ĐỜI.
[25] Nhan đề là “Phường
danh lợi”. Bài này dùng toàn tục ngữ.
[26] Thơ Nguyễn Bỉnh
Khiêm.
Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng như thơ Nguyễn Công Trứ chẳng phải gồm toàn
thơ phúng thế, mà có nhiều loại khác. Vì mục này nói về thơ phúng thế, nên
không đề cập đến các loại kia.