THƠ
BA CHỮ tức là Tạm Tự thi hay Tam Ngôn thi, cũng như thơ hai chữ là một thể thơ
cổ ở Á Đông, Việt Nam cũng như Trung Quốc.
|
Ở
Trung Quốc, bài thơ tam tự xưa nhất có lẽ là bài ca tụng đức độ của hai vị tướng
quốc là Mạnh Thường Quân Điền Văn và Bình Nguyên Quân Triệu Thắng:
Tự
ngã bão,
Y
ngã ôn
Du
lỳ quán
Tức
kỳ môn
Tề
Mạnh Thường,
Triệu
Bình Nguơn,
Giai
công tử,
Hiền
chử nhân.
Nghĩa là:
Cơm
ăn no
Áo
mặc ấm
Chơi
sẵn nơi
Ngủ
sẵn chốn
Tề:
Mạnh Thường
Triệu:
Bình Nguyên
Công
tử tốt
Chủ
nhân hiền.
Bài
này sản xuất từ thời Chiến Quốc (403-221 trước TC). Các đời sau này ít hay
dùng. Về đời Đường (618-907). Mặc dù thể thơ Thất Ngôn thịnh hành, thể thơ tam
tự vẫn không bị các thi gia có tài khinh bỏ. Trương Kiến có bài VỊNH VỌNG PHU
THẠCH rằng:
Vọng phu xứ
Giang du du.
Hóa vi thạch
Bất hồi đầu.
Sơn đầu nhật nhật phong hòa vũ,
Hành nhân qui lai thạch ưng ngữ !
Nghĩa
là:
Trong
nơi trông chồng
Lòng
sông mênh mông,
Hóa
thân thành đá,
Đầu
không ngoảnh trông.
Non
cao mưa tạt gió lồng,
Người
đi có lại đá mong ngỏ lời.
Ở
Việt Nam ngày xưa tiền nhân đã dùng thể Tam Ngôn soạn sách giáo khoa cho trẻ em
học. Một bộ sách rất được lưu hành trong quảng đại quần chúng. Người mới được
khai tâm, học dễ nhớ, đến khi học đã thông rồi, ôn lại càng thấy ý nghĩa sâu
xa. Đó là bộ “Tam Tự kinh”, mà đoạn mở đầu như thế này:
Nhơn
chi sơ
Tánh
bổn thiện.
Tánh
tương cận
Tập
tương viễn
Cẩu
bất giáo
Tánh
nãi khiên.
Giáo
chi đạo.
Quí
dĩ chuyên.
|
Tích
Mạnh Mẫu
Trạch
lân xử,
Tử
bất học
Đoạn
cơ trử.
Đậu
Yên Sơn
Hữu
Nghĩ phương,
Giáo
ngũ tử
Danh
cu dương…
|
Nghĩa
là:
Người
sanh đầu tánh vốn lành
Tánh
cùng gần gũi tập tành xa khơi.
Nếu
chẳng dạy tánh bèn dời
Quí
chưng đạo dạy chớ chầy phải chuyên.
Xưa
Mạnh Mẫu chọn láng giềng,
Giận
con chẳng học dứt liền cửi đi.
Đậu
Yên Sơn nghĩa thường ghi,
Dạy
năm con học đồng thì đăng khoa.
(Người
xưa dịch)
vân
vân..
Còn
về bên Quốc âm thì thể tam ngôn không thấy có trong các tác phẩm còn lưu truyền
của các danh gia. Chúng ta chỉ tìm thấy trong những áng văn bình dân ở nơi hang
cùng ngõ hẻm, trên miệng các em bé nô đùa. Nhiều khi bài ca chỉ gồm những câu bắt
vần, ý nghĩa rời rạc, có khi lại không có nghĩa gì hết. Ví dụ:
Chập
chuồn chuồn
Luồn
rau muống.
Con
cà cuống
Lội
đáy ao
Con
chớp mào
Đầu
đội mũ.
Con
sáo sậu
Đậu
lưng trâu…
vân vân…
Hoặc:
Chập
chành chành
Đanh
thổi lửa,
Ngựa
ba chân
vân vân…
Hoặc:
Xỉa
cá mè
Đè
cá chép
Chân
nào đẹp
Đi
giao men
vân vân…
Thỉnh
thoảng cũng có đôi bài hài hước, lời lẽ ý tứ rất khả ái. Như:
Con
se sẻ
Đẻ
mái tranh.
Vác
miểng sành
Quăng
chết giãy
Nấu
một bảy
Dọn
một mâm
Đem
về dâng ông.
Ông
hỏi thịt gì ?
Thưa
thịt se sẻ !
Chỉ
có một con se sẻ mà nấu được một nồi bảy !
“Một
con se sẻ nấu ngọt một nồi bảy canh” mới nghe như trái với ý “ba voi nấu không
ngọt bát xáo”. Nhưng xét lại thì ra cũng là “khoét láo một phường”. Một phường
“quyền hạn hạt cải” nhưng để lòe đời, tuyên bố huênh hoang toàn những chuyện “lật
trời dời đất”.
Một
bài ca bị người lớn xem khinh, một thể thơ bị các bậc đại gia văn chương không
để ý đến, có ngờ đâu lại chứa đựng ý nghĩa sâu sắc như thế, có ngờ đâu lại có
thể dùng để sáng tác những bài ca bài thi có ý nghĩa sâu sắc như thế.
Bởi
vậy chúng ta không nên xem thường đám “dân ngu khu đen” đương sống ngoi ngóp
trong những nơi nhà tranh vách nát kia, cũng như đừng nên khinh thường những
bài ca “trẻ em” nhị âm, tam tự… kia vậy. Và nếu chúng ta - những người yêu Quốc
âm - ra công khai thác những áng văn chương bình dân ấy, những thể thơ bị bở
quên ấy, thì chúng ta cũng có thể góp phần vào công việc xây dựng nền văn học
cho dân tộc.
Thời
Tiền Chiến, có một ít nhà thơ đã sử dụng thể tam ngôn một cách hữu hiệu. Nguyễn
Vỹ và Lưu Trọng Lư là hai nhà thơ có công phát huy và có nhiều giai tác. Nhưng
thể tam ngôn không được hai nhà dùng toàn vẹn trong một bài nào, mà thường hợp
cùng những thể khác, hoặc nhiều hoặc ít.
Ví
dụ bài Hoàng Hôn và Xuân Về của Lưu Trọng Lư.
HOÀNG
HÔN
Bên
thành con chim con
Hót
nỉ non
Giục
lòng em bồn chồn
Buổi
hoàng hôn.
Em
trách gì con chim con,
Em
oán gì con chim con ?
Em
chỉ hận:
Đã
để tình lang em lận đận
Chốn
xa xôi
Nơi
tuyệt vời,
Trong
lúc con chim trời
Bên
mư nó hót những lời
Nước
non…
XUÂN
VỀ
Nằm
vừa rồi
Chàng
cùng tôi
Nơi
vùng giáp mộ
Trong
gian nhà cỏ,
Tôi
quay tơ,
Chàng
ngâm thơ.
Vườn
sau oanh giục giã.
Nhìn
ra hoa đua nở,
Dừng
tay tôi kêu chàng:
-
Này, này ! Bạn ! Xuân sang !
Chàng
nhìn xuân mặt hớn hở.
Tôi
nhìn chàng lòng vồn vã…
Rồi
ngày lại ngày
Sắc
màu: Phai !
Lá
cành: Rụng !
Ba
gian: Trống !
Xuân
đi,
Chàng
cũng đi !
Năm
nay xuân còn trở lại,
Người
xưa không thấy tới !
Đó
là những “khúc đàn lòng” bình dị, phảng phất hương vị hoa cau hoa bưởi lúc canh
khuya.
Nhạc
điệu của thơ tam ngôn mà chúng ta thấy trong các bài Hán tự, các bài đồng dao
trích dẫn trên đây, đã đổi khác trong các bài của họ Lưu. Họ Lưu đã tạo riêng
cho thơ mình một nhạc điệu mới thích hợp với nhịp lòng rạo rực, thổn thức… trước
bóng hoàng hôn, trước cảnh xuân sang… và những nhạc điệu ấy rất Á Đông. Những bạn
ưa tân nhạc chắc là không thích mấy.
Bài
HAI NGƯỜI ĐIÊN trong tập HOANG VU của Nguyễn Vỹ, nhiều câu tam ngôn chen với những
câu nhị âm và tứ tự, tạo nên một nhạc điệu “bất thường” biểu diễn được thái độ
và hành động của con người “bất thường”. Người điên nhưng không điên:
Một
xó Sài Gòn
Một
căn phố con
Hoang
vu thanh vắng,
Bốn
về phẳng lặng.
Nàng,
tôi, hai người,
Chỉ
ôm nhau cười,
Không
nói.
Ôm
nhau nằm lăn,
Cả
ngày không ăn,
Không
đói.
Không
ăn,
Không
nói.
Chỉ
hôn nhau
Thật
lâu
Từng
sợi tóc.
Và
cắn nhau
Thật
đau
Để
cho khóc.
Rồi
hai người
Ôm
nhau cười
Lăn
lóc.
Nàng
và tôi,
Hai
đứa,
Thật
xứng đôi,
Vừa
lứa.
Nàng
với tôi
Đều
mồ côi,
Gặp
nhau.
Rồi
yêu,
Rồi
nhớ,
Rồi
mớ,
Suốt
đêm suốt ngày,
Như
dại như ngây.
Trưa
hôm nay
Chúng
tôi say,
Nằm
thiêm thiếp
Vừa
một chặp,
Hai
nàng Tiên
Bay
qua đấy,
Trông
thấy,
Sẽ
nhủ:
-
Để yên
Hai
người điên
Đang
ngủ !
Đó
nếu biết sử dụng, thì thể thơ nhị âm, tam ngôn cũng có thể sản xuất được những
giai tác. Trong khi đi tìm thể thơ mới, nếu các thi nhân hiện đại nghĩ đến các
thể thơ có sẵn của nước nhà, như thể nhị âm, tam ngôn… (hầu như đã bị quên
lãng), thì tưởng vừa có lợi cho mình vừa có lợi cho việc phát huy tinh thần dân
tộc.