Ở
Ninh Bình có hòn Non Nước. Ở Quảng Nam cũng có hòn Non Nước.
Hòn
Non Nước của Quảng Nam nằm trong dãy Ngũ Hành Sơn ở phía đông nam Đà Nẵng cách
chừng bốn năm cây số.
Ngũ
Hành Sơn gồm có Kim Sơn, Mộc Sơn, Thủy Sơn, Hỏa Sơn và Thổ Sơn. Danh thì có
năm, nhưng thiệt thì đến sáu. Vì Hỏa Sơn gồm đến hai ngọn: Dương Hỏa Sơn và Âm
Hỏa Sơn. Sáu ngọn núi đứng tranh vanh đột ngột giữa một động cát mênh mông.
Phía tây có sông Trường Giang, phía đông có bể Đông hải.
Trừ
hòn Thổ Sơn, phần lớn là đá thường, các hòn khác đều là đá cẩm vân. Mỗi hòn mỗi
sắc đá khác nhau. Đá nơi Hỏa Sơn và Kim Sơn sắc thủy mặc, nơi Mộc Sơn sắc trắng,
nơi Thủy Sơn sắc hường.
Trong
sáu hòn, hòn nào cũng có kỳ quan thắng tích.
Nhưng
hòn Thủy Sơn, tục gọi là hòn Non Nước, xưa nay được khách du quan khách hàn mặc
thường tới lui hơn các hòn khác. Bởi hòn Thủy Sơn cao lớn hơn tất cả và cũng có
nhiều cảnh đẹp hơn tất cả. Những cảnh nổi tiếng toàn quốc như động Huyền Không,
động Tàng Chơn…, đài Vọng Giang, đài Vọng Hải…, chùa Linh Ứng, chùa Tam Thai…,
hang Âm Phủ…, đều ở trên hòn Thủy Sơn.
Ngũ
Hành Sơn là một danh thắng của Trung Việt.
Thơ
đề vịnh rất nhiều. Nhưng phần nhiều là thơ chữ Hán. Thơ Quốc âm làm theo thể Đường
luật, chỉ nghe truyền có hai bài:
Một
bài của bà Bang Nhãn:
Cảnh
trí nào hơn cảnh trí này
Bồng
Lai âu hẳn cũng là đây
Khói
lồng sắc đá non phơi gấm
Chùa
nức hơi hương biển kéo mây
Ngư
phủ gác cần ngơ mặt nước
Tiều
phu chống búa tựa lưng cây
Nhìn
xem phong cảnh ưa lòng khách
Vút
mắt Trường Sơn ác xế tây.
Một
bài của Thái Duy Thanh:
Hay
là ông Lý Khổng Lồ xây
Mới
có non non nước nước này
Ngó
lại ngó qua năm đống đá
Tu
lên tu xuống mấy ông thầy
Lên
đài Vọng Hải trông xa mú
Vào
động Huyền Không ngó trống quầy
Lếu
láo ngâm đưa ba chén rượu
Cõi
trần âu cũng có tiên đây.
Thái
Duy Thanh là người đồng châu và đồng thời cùng bà Bang Nhãn. Song khẩu khí đôi
bên khác hẳn nhau. Một bên thì trang trọng, một bên thì phóng dật, xem khinh mọi
cảnh vật bên ngoài.
Không
thể đem so hơn kém, vì mỗi bài có một cốt cách riêng, một phong vị riêng.
Gần
đây BÍCH KHÊ cũng có hai bài, lời mới tứ lạ, nhan đề là TIỀN NGŨ HÀNH SƠN, HẬU
NGŨ HÀNH SƠN.
Đây
bài Tiền:
Lên
chơi Hòn Non Nước
Gót
trổ ngọc song song…
Chàng
ơi, đêm đã ướt
Mắt
sao trên trời cong.
Long
lanh, ngời, sáng, mướt:
Là
gấm hay là nhung
Dệt
lên đá linh lung
Những
hình điêu khắc nổi
Sặc
sỡ - Voi uốn ngà,
Cánh
dơi nghe phất phới,
Tiên
đồng bước giữa hoa,
Mục
đồng lưng trâu cỡi
Thổi
sáo bên rừng mai…
Bí
mật trời Thiên Thai,
Động
Huyền Không bốc khói!
Lờ
mơ đường lên mây,
Chén
trăng vừa tầm vói,
Chàng
ơi, vàng ròng đây
Kề
môi say ân ái…
Nhàu
nhàu đệm rêu xanh
Dàu
dàu màu sơn huỳnh,
Là
là buông ren lụa.
Gót
trổ gần mà xa…
Hiện
lên đôi thạch nhũ,
Sữa
trắng như tuyết pha
Nhi
nhỉ nơi một vú…
Chàng
ở, lòng vữa sao
Khi
hứng giọt thơm ngào?
Hình
ảnh thật là giàu, hình ảnh do tâm cảnh phối ngẫu mà sinh thành. Nhưng chưa linh
động bằng đoạn tiếp:
Thôi
lên đài Vọng Hải
Nhìn
kim cương rưng rưng!
Nhạc
vàng đâu hãy lại,
Trời
nước lộn trong sương…
Hình
trập trùng múa nhảy
Trên
nền sóng rung rinh
Những
tiên nữ trắng tinh
Ngang
thân làn biếc khỏa.
Ty
trúc nhấn gần xa,
Lay
bay hơi báu tỏa…
Miệng
nào giục điệu ca?
Tóc
nào buông lõa xõa?
Mắt
nào điện long lay?
Tay
nào như sắp bay?
Cảnh
tượng ở đoạn trên là cảnh tượng trên núi. Cảnh tượng ở đoạn dưới là cảnh tượng
ngoài biển. Vẻ đẹp cả hai đều lộng lẫy và trong sáng. Nhưng khi thi nhân đưa
chúng ta xuống hang Âm Phủ dưới chân núi, thì chúng ta không khỏi rùng mình:
Gió
lồng hang Âm Phủ, [1]
Hoa
mộng thẫm màu thâm!
Bóng
đa phờ tóc rũ:
Ở
con tinh đứng , nằm
Đưa
võng hát ru con,
Điệu
buồn trơn giọng cú
Làm
úa mảnh trăng lòn!
Hai
ta là mảnh vỡ
Của
ngai báu Thiên Đường;
Hai
ta là chất bổ
Cắn
ở trái Đau Thương…
Chàng
ơi, đêm nín thở
Để
hồn biến ra hương…
Chập
chờn trong nữ yêu,
Vào
ra theo răng lựu;
Chập
chờn trong ba tiêu,
Dường
mưa thu nhỏ giọt;
Chập
chờn trong tiếng chuông
Điểm
kinh - ngân thánh thót;
Chập
chờn trong bể sương,
Lượn
theo nếp y thường…
Hai
ta là mảnh vỡ
Của
ngai báu Thiên Đường;
Hai
ta là chất bổ
Cắn
ở trái Đau Thương…
-
Ái ân là ô thước;
Cây
ngọc trổ văn chương -
Lên
chơi Hòn Non Nước,
Ôm
nhau chết bên đường,
Mơ
màng trăng hạc rước…
Tứ
thơ vừa tân kỳ vừa phong phú! Tác giả thổi hồn mình vào cảnh vật và biến cảnh vật
thành những hiện tượng như có như không, nửa thực nửa mộng! Thật là kỳ thú! Người
đọc bị hấp dẫn phải chạy theo dòng thơ đến cuối cùng, lắm lúc muốn dừng, nhưng
không hề hoặc không nỡ dừng lại.
Bài
Tiền làm năm 1941. Bài Hậu làm năm 1943. Đó là do hai bài của bà Bang Nhãn và của
Thái Duy Thanh, cùng hai bài Tiền Xích Bích Phú, Hậu Xích Bích phú của Tô Đông
Pha gây hứng.
Bài
Hậu dài 82 câu, hình ảnh cũng rất giàu và sức truyền cảm cũng mạnh mẽ. Xin
trích một đoạn:
… Kim Mộc Hỏa Thổ lạy,
Trên
dưới đất trời chầu.
Vàng
sao trời mắt rạng;
Sương
châu nhỏ giọt sa
Gọi
sắc cỏ thơm dậy
Lẩn
quất khí rừng hoa.
Gọi
hồn đại hải lại
Nhập
khói động Huyền Không.
Điểu
thú về hết thảy;
Phụng
hoàng múa theo công;
Rồng
xuống khoe năm vẻ;
Bạch
viên ngoạm trái đào;
Thần
tiên rủ yêu quấy,
Cử
lên nhạc Tiêu Thiều
Sực
nức lò hương xông;
Trập
trùng màu xiêm áo;
Lớt
đớt trận mưa bông;
Phật
Như Lai thoạt hiện
Trên
bảy sắc cầu vồng.
Quái
thay hòn Non Nước
Nghe
giảng đủ mười tông!
Muôn
năm lòng đá rắn
Nhuần
thấm giọt từ bi
Biển
xanh thay chất mặn,
Rừng
thẳm lọc hơi sầu!
………………
NGŨ
HÀNH SƠN hiện dưới mắt mỗi người mỗi khác, bởi tâm hồn không giống nhau. Ngũ
Hành Sơn ví như Tánh, những hiện tượng dưới mắt người là Tướng và tâm hồn của mỗi
người nhìn núi là duyên. Tánh bất biến, còn tướng tùy duyên. Cho nên Ngũ Hành
Sơn chỉ có một, mà những cảnh tượng tả trong thơ muôn sai nghìn khác.
Người
xem thơ không nên chấp tướng thì mới hưởng được chân thú chân vị của thơ.
[1] Hang Âm Phủ ở dưới
chân hòn Thủy Sơn, tức hòn Non Nước (Tiếng Non Nước do chữ Thủy Sơn mà ra).