Người
xưa luận thi thường lấy thanh đạm tự nhiên làm quí. Người sau bắt chước. Nhưng
không nhớ lời dặn của người xưa: “muốn thanh đạm trước phải nùng diệm, muốn tự
nhiên trước phải trác luyện công phu”. Lại lầm giản lậu là tự nhiên, khô sấu là
thanh đạm. Do đó đua nhau ca tụng những câu như:
|
Tớ
đẻ tháng mười năm Bính Tý
Năm
nay Bính Tý sáu mươi năm
Kể
vòng hoa giáp quanh đà khắp
Còn
nợ non sông chết chửa cam… [1]
Cho
là văn chương của bậc đại gia, hay một cách tự nhiên khó mà bắt chước nổi.
Thơ
như thế tự nhiên thì tự nhiên thật, song quá khô khan lợt lạt như cơm lứt thiếu
muối mè. Tuy thế lời văn già dặn chớ không quê như những câu:
Đủ
ý đủ câu là có cách
Trơn
vần trơn chữ nói ra bề
Tả
cho thực cảnh y như thấy
Nói
hết chân tình hẳn dễ nghe… [2]
Thật
thà như lời bà lão dạy con. Nhiều người ưng thơ được giản dị dễ hiểu, đã dùng
những câu ấy để làm mẫu trong khi nói về thơ.
Những
câu thượng dẫn thuộc về loại vận ngữ chớ không phải thơ.
Đại
biểu cho thơ tự nhiên và thanh đạm là những bài Thu của Tam Nguyên Yên Đỗ:
THU
HỨNG
Trời
thu xanh ngắt mấy tầng cao
Cần
trúc lơ thơ gió hắt hiu
Nước
biếc trông như làn khói phủ
Song
thưa để mặc bóng trăng vào
Mấy
chùm trước giậu hoa năm ngoái
Một
tiếng trên không ngỗng nước nào
Nhân
hứng đã vừa toan cất bút
Nghĩ
ra lại thẹn với ông Đào. [3]
THU
ĐIẾU
Ao
thu lạnh lẽo nước trong veo
Một
chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng
biếc theo làn hơn gợn tí
Lá
vàng trước gió khẽ đưa vèo
Tầng
mây lơ lững trời xanh ngắt
Ngõ
trúc quanh co khách vắng teo
Tựa
gối ôm cần lâu chẳng đặng
Cá
đâu đớp động dưới chân bèo.
THU
ẨM
Ba
gian nhà cỏ thấp le te
Ngõ
vắng đêm khuya đóm lập lòe
Lưng
dậu phất phơ màu khói nhạt
Làm
ao lóng lánh bóng trăng loe
Da
trời ai nhuộm mà xanh ngắt
Mắt
lão không viền cũng đỏ hoe
Rượu
tiếng rằng hay hay chẳng mấy
Độ
năm ba chén đã say nhè.
Thật
là tự nhiên mà cũng thật là thanh đạm.
Những
vần thơ trên kia là những con mương đào dẫn nước vào ruộng.
Ba
bài thơ thu là những dòng suối trong chảy quanh co róc rách dưới chân núi.
Thanh tuyền tế ẩm
tri chân vị. [4]
Nước
suối trên non, muốn biết chân vị phải tế ẩm [5].
Muốn thưởng thức chân thú của ba bài thơ thu Yên Đỗ cũng phải “tế ẩm”, nghĩa là
đọc kỹ càng, đọc với đôi mắt tế nhị tinh vi, với tấm lòng an nhàn thanh tịnh. Bởi
đó không phải là những bức tranh lời vẽ cảnh, mà là những khung cảnh lồng tranh
lòng, lòng của một thi nhân đã lắng trần cấu để hòa đồng cùng với thiên nhiên.
Mà lòng tác giả đã hòa đồng cùng thiên nhiên để tạo nên những vần thơ thú vị,
thì lòng độc giả cũng phải hòa đồng cùng lòng tác giả mới hưởng trọn thú vị
trong thơ. Bằng không thì nước suối trên non cũng như nước mương ngoài ruộng.
Ba
bài thu của Yên Đỗ do bộng trời mà ra. [6]
Riêng
tiếc bài nào câu kết cũng không được thanh thoát như sáu câu trên. Đối với những
câu trên, câu kết là con người trần tục nhảy vào dòng suối đương trong đương lặng,
khiến bầu không khí thanh thịnh bị vương một ngấn bụi, bị vẩn một tiếng ồn.
Xem
đó đủ biết làm được bài thơ xuất sắc có nhiều người làm được, làm được bài thơ
toàn bích xưa nay thật ít ai. Bởi nhân vô thập toàn thì thi cũng vô thập toàn vậy.
Trở
lại cùng Yên Đỗ:
Yên
Đỗ thi tài cao, thi học rộng, lại là người có uy danh trong xã hội, ai ai cũng
trọng vọng cũng coi như Bắc đẩu Thái Sơn. Thơ cụ đưa ra, thơ Nôm cũng như thơ
chữ, ít ai dám bắt bẻ. Do đó lắm lúc cụ không thận trọng ngòi bút, viết ra những
câu vô vị, như:
NHẤT
VỢ NHÌ TRỜI
Nghĩ
chuyện trần gian cũng nực cười
Trời
khôn hơn vợ? - Vợ hơn trời?
Khôn
đến mẹ mầy là có một
Khéo
như con tạo cũng là hai
Trời
dẫu yêu vì nhưng có phận
Vợ
mà vụng dại đếch ăn ai
Cớ
sao vợ lại hơn trời nhỉ?
Vợ
chỉ hơn trời một cái trai. [7]
Chẳng
những vô vị mà còn nhảm nhí nữa là khác! Còn được lưu truyền chỉ vì cái danh của
tác giả chớ không phải vì thơ. Những văn thơ như thế, trong số thi phẩm của Yên
Đỗ có trên một bài.
Thi
nhân có đại gia và danh gia.
Cụ
Tam Nguyên Yên Đỗ thuộc hàng đại gia. (Grand)
Bà
huyện Thanh Quan thuộc vào hàng danh gia. (Pur)
Trong
Tùy Viên Thi Thoại có nói rõ về điểm này:
“Có
người bảo: “Tài đại gia như nước sông Hoàng Hà muôn dặm, cùng bùn cát chảy xuống”.
Ta cho đó là thô tài chớ không phải đại tài. Đại tài như nước biển tiếp chân trời,
sóng tắm mặt nhật. Trông thấy toàn vàng bạc lâu đài, hoa kỳ cỏ lạ, chớ đâu lại
có cát bùn làm nhơ mắt người. Lại bảo: “Đại gia không hềm điều tạp nhạp, danh
gia tất phải chọn chữ chuốt câu”. Ta nói: kẻ làm thơ phải tự mạn cho mình làm
danh gia, để người đời sau đưa mình vào hàng đại gia, chớ nên tự mạn mình là đại
gia khiến người đời sau đuổi mình ra khỏi hàng đại gia”.
Đó
là lời nói đáng ghi lòng.
Nhưng
dù đại gia, dù danh gia, từ xưa đến nay từ đông lên tây không một ai thập toàn.
Huống nữa vào trong một vườn hoa, nhất là vườn rộng rãi, thì làm sao tránh khỏi
rác rến, tránh khỏi lá úa nhánh khô. Để khỏi uổng công vào vườn, khách tìm hoa
tưởng nên bỏ qua những cảnh không đẹp mắt thích lòng để rảnh rang mà thưởng thức
những hương thơm sắc đẹp.
Trong
vườn hoa thơ của Yên Đỗ những bài thu kia là những đóa cúc nở sương, những đóa
bạch ngọc cúc, cánh thanh hương dịu. Còn nhiều giống cúc khác:
VỊNH
THÚY KIỀU
Kiều
nhi giấc mộng bật như cười
Tỉnh
dậy xuân xanh quá nửa rồi
Số
kiếp bởi đâu mà lận đận
Sắc
tài cho lắm cũng lôi thôi
Cành
hoa vườn Thúy duyên còn bén
Ngọn
nước sông Tiền nợ chửa xuôi
Không
trách chàng Kim đeo đẳng mãi
Khăng
khăng vớt lấy một phân đuôi.
KIỀU
VIẾNG MẢ ĐẠM TIÊN GẶP KIM TRỌNG
Ví
chẳng đua chơi hội Đạp Thanh
Làm
chi mang lấy nợ ba sanh
Kẻ
còn người khuất hai hàng lệ
Trước
lạ sau quen một chữ tình
Nghĩ
đến suối vàng thương phận bạc
Nỡ
đem lá thắm phụ xuân xanh
Trong
khuôn tài sắc trời hay ghét
Trăng
gió xưa nay chẳng một mình.
Thơ
Vịnh Kiều của Yên Đỗ tôi được đọc trên năm bài. Không biết những bài đó có phải
do cuộc thi Kiều của Lê Hoan mà ra chăng? [8]
Hai bài thượng dẫn là những đóa kim cúc, sắc đẹp những không lõa, hương thắm
nhưng không nồng. Sau đây là những đóa dã cúc:
Bóng
thuyền thấp thoáng dờn trên vách,
Tiếng
sóng long bong lượn trước nhà.
(Vịnh lụt)
Trâu
già núp bụi phì hơi nắng
Chó
nhỏ bên ao cắn tiếng người.
(Cảnh
trưa mùa hạ)
Bạn
già lớp trước nay còn mấy
Chuyện
cũ mười phần chín chẳng như.
(Cảm
hứng)
Khi
buồn chén rượu say không biết
Ngửa
mặt lờ mờ ngọn núi xa.
(Cáo
quan về nhà)
vân
vân…
đều
là những vần thơ hay. Nhưng không thanh thoát cao nhã bằng ba bài thơ thu.
Cho
nên hễ nói đến Tam Nguyên Yên Đỗ thì phải nói đến ba bài thu trước nhất, và nói
đến thơ thanh đạm tự nhiên cũng phải đưa ba bài thơ thu ra làm tiêu biểu trước
nhất.
[1] Thơ của cụ Huỳnh Thúc
Kháng - Thơ 8 câu, đăng ở Tiếng Dân, được các nhà cựu học tán thưởng.
[2] Thơ cụ Nguyễn Hữu Bài
trong tập Thơ Nôm Phước Môn xuất bản năm 1959.
[3] Đào Tiềm đời Tấn, bỏ
quan về nhà ở ẩn. Bài này cụ làm lúc còn làm quan, nên mới thẹn với ông Đào.
[4] Câu chuyển bài LINH
PHONG TỰ của Đào Tấn, ý nói nước thanh tuyền uống một cách chậm rãi kỹ càng thì
biết được chân vị. (Quanh chùa Linh Phong có suối trong mát.)
[5] Tế ẩm là uống một
cách thong thả, vừa uống vừa lắng lòng cho thanh tịnh, uống với vị giác tinh
tế, vừa uống vừa quán tưởng.
[6] Bộng Trời là Thiên
lại - Đã nói ở các bài trước rồi.
[7] Cái trai tức con trai
ở biển, hình hơi giống con ngao nhưng dẹp chớ không tròn.
[8] Xem bài số 22 ở
trước.