Cũng
như Mai Xuân Thưởng, TĂNG BẠT HỔ là một hào kiệt gồm đủ tài văn võ.
Tên
thiệt là TĂNG DOÃN VĂN. Sanh năm Kỷ Tỵ (1859) tại làng An Thường, quận Hoài Ân,
tỉnh Bình Định. Bạt Hổ là vinh hiệu do Mai nguyên soái tặng (Bạt Hổ tướng quân).
Năm
Ất Dậu (1885), cùng Mai Xuân Thưởng lãnh đạo nghĩa binh Cần Vương. Làm Tổng Trấn
miền Bắc Bình Định. Sau khi nghĩa binh bị bại, Ngài tránh được nanh vuốt giặc và trốn ra hải ngoại.
Truyền
rằng:
Khi
Tăng Tổng rấn lên đèo Dốc Đót để theo đường núi ra khỏi tỉnh Bình Định, thì gặp
một con cọp chận đường. Tổng trấn bình tĩnh nói:
-
Tôi vì đại nghĩa mà phải băng ngàn. Nếu Ngài có thương kẻ mang nặng quốc thù
trong mình thì hãy tránh đường cho tôi đi. Bằng không thì xin biếu Ngài tấm
thân bảy thước. [1]
Cọp
liền tránh đường.
Tăng
Tổng trấn sau khi ra khỏi vùng vây chận của giặc rồi thì đến cùng Lưu Vĩnh
Phúc. Sau làm thủy thủ một tàu buôn, qua lại Trường Kỳ, Hoành Tân, rồi xung vào
Thủy Quân Nhật Bản. Tổng trấn có công lớn trong các trận Đại Liên, Lữ Thuận, được
Nhật Hoàng thưởng huy chương quân công.
Trong
bữa tiệc Nhật Hoàng khao thưởng các tướng sỹ thắng trận năm 1905, Tăng Tổng trấn
có tham dự. Nhật Hoàng tự rót rượu thưởng. Tổng Trấn uống cạn rồi khóc lớn, kể
nỗi nước mất nhà tan. Ai nghe cũng cảm động.
Sau
đó Tổng Trấn xin viện binh về Việt Nam đánh Pháp. Thủ Tướng Khuyển Dưỡng Nghị
khuyên nên lo phát triển tinh thần duy tân trong nước trước đã, và hứa giúp du
học sinh Việt Nam được phép cư trú ở Nhật và được miễn học phí. Tổng Trấn bèn về
nước cùng Phan Sào Nam gây phong trào Đông Du.
Tăng
Tổng Trấn về nước hai lần. Lần thứ nhì, bị bệnh mất tại nhà chĩ sỹ Võ Bá Hạp [2]. Mất ngày 19
tháng 7 năm Đinh Vỵ (27-8-1907).
Chí
sỹ Đặng Thái Thân ở Nghệ An, nghe tin làm câu đối điếu:
Quân khởi kỳ sanh tác hý ư thời gia? Đề binh thập nẫm, khứ quốc trấp dư
niên, ký khốc ư Xiêm, ký khốc ư Hoa, ký khốc ư Nga, hốt hốt nhiên đại khốc ư
Đông; thùy giao tứ nhập thu phong, hướng ngã thần kinh mai hiệp cốt.
Ngã bất tri tử chi vi hà vật giả, độc thư ngũ châu, kết giao sổ thập bối,
hoặc chiến dĩ thiệt, hoặc chiến dĩ bút, hoặc chiến dĩ não, đoan đoan trích thực
chiến dĩ thiết, yếu đắc huyết lưu ôn đới, vị quân hoàng chủng thụ hồng kỳ.
Chí
sỹ Huỳnh Thúc Kháng dịch:
Người
há sinh làm giỡn với đời sao? Cầm binh một độ, bỏ nước hai mươi năm, đã khóc với
Xiêm, đã khóc với Tàu, đã khóc với Nga, đùng đùng sang khóc lớn bên Đông, ai dè
gió phất trời thu, nắm cốt về chôn thành đất Huế.
Ta
chả biết chết là cái gì vậy! Đọc sách năm châu, kết giao vài chục bạn, hoặc
đánh bằng lưỡi, hoặc đánh bằng bút, hoặc đánh bằng não, khăng khăng chỉ độc
đánh bằng sắt, thề quyết máu trôi đất nóng, cờ đào tỏ mặt giống da vàng.
Sau
khi Phan Sào Nam về ở nơi Bến Ngự, bia mộ của Tăng Tổng Trấn mới dựng. Nhưng để
bọn Thực Dân Phòng Kiến khỏi biết, bia không mang tên họ của Tổng Trấn, mà mang
tên trại là: LÊ THIỆU DẦN.
Dần
là Hổ. Nhưng không hiểu sao lại lót chữ Thiệu và lấy họ Lê.
Tăng
Tổng Trấn lại còn một biệt hiệu là ĐIỀN BÁT TỬ. Cũng không hiểu thụ nghĩa như
sao.
Hiện
nơi quê hương của Tổng Trấn chưa có đài tưởng niệm, nhưng đi ngang qua Hoài Ân,
nhìn lên hòn Dinh là nơi Tổng Trấn đóng mật khu khi xưa, thì người có tâm cùng
đất nước đều lắng nghe người địa phương hát:
Mây
chiều quấn quít hòn Dinh
Nhớ
Tăng Tổng trấn hết mình cứu dân
Non
sông chưa sạch bợn trần
Nắng
mưa bao quản tấm thân quê người
Tre
tàn còn có măng tươi
Gương
sưa còn tỏ còn người soi gương.
Gương
Tăng Tổng Trấn nêu cao là gương phấn dũng.
Ở
Bình Khê, trông vào Linh Đỗng nơi mật khu của Mai Nguyên soái, người địa phương
hát:
Hầm
Hô cữ nước còn đầy
Còn
gương phấn dũng còn ngày vinh quang.
Thì
ở Hoài Ân nhìn gương phấn dũng treo nơi Hòn Dinh, đồng bào cũng cất cao giọng
hát:
Tre
tàn còn có măng tươi
Gương
sưa còn tỏ còn người soi gương.
Hy
vọng tràn trề trong lòng Côn giang, Lại giang và nhẫy đầy mọi lòng người yêu
quê hương yêu chủng tộc ở Bình Định nói riêng ở Việt Nam nói chung.
Đó
là công nghiệp anh hùng.
Còn
sự nghiệp văn chương?
Tăng
Tổng Trấn học giỏi nhưng không chịu đi thi, và không thích luyện văn bằng luyện
võ. Trong những án văn chương quốc cấm thời Thực Dân Phong Kiến, còn truyền lại
một bài của Tổng Trấn:
Á
TẾ Á
Người
nhiều hơn mà đất rộng hơn
Cuộc
đời mở hội dinh hoàn
Anh
hùng bốn bể giang san một nhà.
Xiêm
La Diến Điện gần liền
An
Nam Chân Lạp thông miền Ai Lao.
Thịt
một miếng trăm dao bâu xé
Chiếc
kim âu đã mẻ khôn lành
Lang
sói Pháp muỗi ruồi Anh
Nén
hơi đại Đức nép mình cường Nga
Gương
Ấn Độ chẳng xa đâu đó
Chẳng
máu đào cũng họ da vàng
Mênh
mông một giải Đông Dương
Nước
non nô lệ trông càng thêm đau…
Đoạn
giữa, đoạn dài nhất, kể rõ tình trạng nước Việt Nam dưới ách đô hộ Pháp và dưới
tay đè nén của vua quan tôi tớ.
Kế
đến là đoạn hô hào đồng bào lo việc duy tân để giành lại độc lập cho đất nước.
Đoạn
kết nói qua về thân phận riêng mình:
Thân
phiêu bạt đã đành vô lại
Bấy
nhiêu năm Thượng Hải Hoành Tân
Liêu
Đông nhân lúc tùy quân
Tủi
thân bôn bá theo chân khải hoàn
Bưng
chén rượu ân ban hạ tiệc
Gạt
hàng châu khép nép quì tâu
Trời
Nam mờ mịt ngàn dâu
Gió
thu như thổi cơn sầu năm canh
Biết
bao nỗi bất bình khôn giải
Mượn
bút hoa mà gởi quốc âm
Thân
lương bao quản cát lầm
Khuyên
ai dốc chữ đồng tâm sau này…
Bài
ca đã làm sôi nổi lòng đồng bào Việt Nam, và mặc dù bọn cầm quyền ngăn cấm, ảnh
hưởng vào tận nơi hang cùng ngõ hẻm ở khắp nước Việt Nam. Người có tâm cùng thổ
võ không ai không thuộc lòng ít ra cũng một đôi đoạn. Ở Bình Định nhiều ông lão
bà lão thuộc từ đầu đến cuối. Các cụ khoái nhất là khi đọc đến những đoạn như:
Nhiều
hạng thuế kể chi cho xiết
Nói
ra luống những đau lòng
Cha
con khổ nhục vợ chồng lìa tan
Cũng
có lúc bầm gan tím ruột
Vạch
trời kêu mà tuốt gươm ra
Cũng
xương cũng thịt cũng da
Cũng
dòng máu đỏ con nhà Lạc Long…
Thế
mà chịu trong vòng trói buộc
Mấy
mươi năm nhơ nhuốc lầm than
Than
ôi! Bách Việt giang san
Thông
minh đã sẵn khôn ngoan có thừa.
Hồn
mê mẩn tỉnh chưa? Chưa tỉnh!
Anh
em mình phải tính sao đây?
Hoa
là bạn Nhật là thầy
Đọc
những đoạn ấy và đoạn kết, nhiều khi các cụ cắn răng vào nước mắt, tay run theo
lời ngâm. Và ngày nay đọc lại, chúng ta cũng khó nén lòng bi phẫn cảm khái.
Tăng
Tổng Trấn đã nói:
Thân
lương bao quản cát lầm
Khuyên
ai dốc chữ đồng tâm sau này.
Thì
chúng ta kính cẩn thưa:
Tre
tàn còn có măng tươi
Gương
xưa còn tỏ còn người soi gương.
[1] Có người lại truyền
rằng: Tổng trấn bị cọp chận đường, phải cùng cọp đánh nhau cả buổi. Sau cọp
đuối sức không dám đấu nữa phải bỏ chạy.
Ở Bình Định, người cùng cọp đánh
nhau là chuyện thường xảy ra. Song chuyện đánh cọp hay nói chuyện nhân nghĩa cùng
cọp ở trong núi sâu, ai thấy mà biết? Có lẽ người ta bày ra để giải thích tên
Tăng Tổng trấn vì không biết sự thật Bạt Hổ là danh hiệu do nguyên soái Mai
Xuân Thưởng tặng: Bạt Hổ tướng quân.
[2] Thân sinh ông Võ Như
Nguyện. Ông Nguyện lo việc hương hỏa cho Tăng Tổng Trấn, từ khi cụ Võ Bá Hạp
qui thần.
[3] Á Tế Á: phiên âm chữ
Asie tức Châu Á.
[4] Âu La: Âu La Ba,
phiên âm chữ Europe tức Châu Âu.
[5] Chi Na: phiên âm chữ
Chine là nước Trung Hoa. Đông Dương thường gọi là An Độ Chi Na là dịch chữ
Indo-Chine ra.
[6] Thuế phát xia là thuế
cầu tiêu.
[7] Bái Á Tế Á này, có
nhiều người nói là của cụ Tham Tán Nguyễn Thiện Thuật, có người lại nói của cụ
Mai sơn Nguyễn Thượng Hiền, lại có người bảo là của cụ Phan Sào Nam. Nhưng đều
sai vì năm 1905 quí vị ấy đều không có ở Nhật. Huống đoạn kết đã kể rõ việc
“đổng khốc” khi Nhật Hoàng ban rượu. Như thế đủ chứng minh rằng tác giả là Tăng
Tổng Trấn.