Cũng như thơ Nhị
Âm, Tam Ngôn, Tứ Ngôn, thơ LỤC NGÔN là một thể thơ cổ.
|
Thể thơ này gốc của
Trung Hoa đưa vào Việt Nam, và thịnh hành trong làng thơ Quốc âm dưới thời Lê,
Mạc. Đời nhà Trần, từ lúc Hàn Thuyên dùng luật Đường làm thơ Việt, thể lục ngôn
dường như không được đề cập đến, nên trong số thơ còn truyền tụng, không thấy
bài Lục Ngôn nào. Hoặc giả thi nhân đương thời có dùng, song tác phẩm bị thất
truyền chăng.
Hiện nay chúng ta
thường gặp thơ lục ngôn trong các tác phẩm đời Lê và đời Mạc, như Ức Trai Di Tập của Nguyễn Trãi, Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập triều Lê Thánh
Tông, Lê Triều Ngự Chế Quốc Âm Thi, Bạch Vân Quốc Ngữ Tập của Nguyễn Bỉnh
Khiêm.
Thể Lục Ngôn, niêm
luật cũng tương tợ như thể Thất Ngôn, duy mỗi câu chỉ sáu chữ. Vần cũng ở cuối
câu chẵn
(trừ câu nhất có vần cũng được không cũng được) và khi thì dùng vần bằng khi
thì dùng vần trắc.
Xin trích một bài,
vần bằng, trong Lê Triều Ngự Chế Quốc Âm Thi:
BỒ ĐỀ THẮNG CẢNH THI
Tịnh Kiền khôn
kẽ một bầu
Bao hình thế bốn
bề thâu.
Phong lưu hậu
xây nền hậu,
Thú vị mầu ngụ
ý mầu.
Quán nguyệt
trông in đáy nước,
Chày kình vang
nện bên lầu.
Yên vui bởi dân
thuần cổ,
Ấy xưa sau sở
thích cầu.
Và đây một bài vần
trắc trích trong Hồng Đức Quốc Am Thi Tập:
VỊNH CHÙA NON NƯỚC
Này hiệu Bồng
này hiệu Nhược
Hai bên góp làm
Non Nước.
Đá chồng hòn thấp
hòn cao,
Sóng trục lớp
sau lớp trước.
Phật hư vô cảnh
thiếu thừa,
Khách danh lợi
buồm xuôi ngược.
Vẳng nghe trên
gác boong boong,
Lẩn thẩn dưới
chiền lần bước.
Điệu thơ Lục Ngôn
đều đặn, không biến hóa, đọc nghe trầm trầm, ít thích thú. Để bớt vẻ bằng phẳng,
cổ nhân thường chen những câu bảy chữ vào trong các câu sáu chữ. Số lượng không
nhất định, vị trí cũng không nhất định.
Có bài chỉ chen một
câu bảy mà thôi. Ví dụ bài TỰ THUẬT của Nguyễn Trãi:
Ngọ thời nằm
đói thời ăn,
Việc vàn ai hỏi,
áo bô cần.
Tranh treo vách
nài chi bức,
Đình thưởng sen
năng có gian.
Vườn quỳnh dầu
chim kêu hót,
Cõi trần có
trúc đón ngăn.
Già vẫn lấy rượu
phù khỏe,
Họa lại quên
lòng khó khăn.
Câu bảy lẻ loi như
thế không bao giờ nằm giữa bài, tức ở trạng hoặc luận, mà chỉ nằm ở câu đầu,
câu hai, câu bảy, câu tám, tức nằm ở khởi, thừa, chuyển, kết.
Xin trích thêm một
bài của Nguyễn Bỉnh Khiêm mà câu bảy nằm sau rốt:
Chiếm tự nhiên
một tấm lều,
Qua ngày tháng
lấy đâu nhiều.
Gió tiễn rèm
thay chổi quét,
Trăng kề cửa kẻo
đèn khêu.
Cơm ăn chẳng quản
dưa muối,
Áo mặc chi nài
gấm thêu.
Tựa gốc cây ngồi
hóng mát,
Đìu hiu ta hãy
một đìu hiu.
Vì thơ Lục Ngôn
bát cú cũng như Thất Ngôn bát cú, trạng và luận, đều theo phép đối, nên nếu muốn
chen câu bảy chữ vào bài thơ Lục Ngôn, thì phải chen đủ cặp đối nhau, và hai
câu bảy chữ chen vào đó phải nằm ở vị trí câu trạng hoặc câu luận, chớ không thể
ở trạng một vế, luận một vế.
Ví dụ trong bài
TIÊU TƯƠNG DẠ VŨ trích ở Hồng Đức Quốc Am Thi Tập, hai câu bảy chữ nằm ở câu luận:
Ngàn Tương thuở
rụng hạt mưa,
Lã chã thâu đêm
gió đưa.
Giọt tiếng vàng
cao lại thấp,
Rung cành ngọc
nhặt thì thưa.
Đành hanh tai
khách nằm khôn nhắp,
Lai láng lòng
thơ hứng có thừa.
Sớm dậy xem rồng
mọc cháu
Nghìn hàng đổng
lạ hơn xưa.
Vì số câu bảy chữ
chen vào thơ Lục Ngôn không nhất định là bao nhiêu, nên có khi một, có khi hai,
có khi ba, có khi bốn, có khi đến năm, sáu. Nếu những câu bảy nằm ở khoảng giữa
bài thì nhất định phải đối nhau. Còn nếu nằm ở khởi, thừa, chuyển, kết thì không
phải đối. Và nằm ở những câu này thường là những câu lẻ. Những câu bảy chữ nằm
chung với nhau một chỗ, hoặc nằm cách nhau, câu trên đầu câu ở cuối, hay vài
câu ở giữa, vài câu ở đầu có cuối có.
Đây một bài Lục
Ngôn mà ba câu bảy chữ nằm một chỗ:
Góc thành Nam lều
một gian
No nước uống
thiếu cơm ăn.
Con đòi trốn dễ
ai quyến,
Bầy ngựa gầy
thiếu kẻ chăn.
Ao bởi hẹp hòi
không thả cá,
Nhà quen xuế
xóa ngại nuôi vằn.
Triều quan chẳng
phải ẩn chẳng phải
Góc thành Nam lều
một gian.
Đó là bài “Tự
trào” của Nguyễn Trãi làm lúc quân nhà Minh bắt an trí ở Thăng Long [1].
Bài sau đây cũng của Nguyễn Trãi, làm lúc đã về náu ở Côn Sơn:
Lánh trần náu
thú sơn lâm
Lá thông đàn tiếng
trúc cầm.
Sách cũ ngày
tìm người hữu đạo,
Trì thanh đêm
quyến nguyệt vô tâm.
Suy hết tấc
lòng hồng hộc
Hỏi làm chi sự
cổ câm.
Thế sự dù ai
hay buộc bện,
Sen nào có bén
cùng lầm.
Ba câu bảy mà hai
câu nằm chung một câu nằm riêng như thế rất thường gặp.
Trong những bài Lục
Ngôn bát cú, mà số câu bảy và số câu sáu ngang nhau, nghĩa là mỗi thứ bốn câu,
thì có bốn câu bảy nằm giữa, khi bốn câu sáu nằm giữa, khi thì nằm xen kẽ lẫn
nhau.
Đây một bài của
Nguyễn Bỉnh Khiêm mà bốn câu sáu nằm giữa:
Chưa dễ ai là bụt
Thích Ca,
Mọi niềm Nhân
Ngã nhẫn thì qua.
Lòng vô sự
trăng in nước,
Của thảng lai
gió thổi qua.
Những khách
xuân xanh khi trẻ,
Mấy người đầu bạc
tuổi già,
Thanh nhàn ấy
là tiên khách,
Biết thú ta là
có thú ta.
Đây một bài mà bốn
câu sáu bốn câu bảy nằm xen kẽ lẫn nhau, trích ở Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập, nhan
đề là Vịnh Canh Năm:
Canh chầy đèn hạnh
lâm dâm,
Xao xác lầu
canh trống điểm năm.
Nguyệt đầu non
treo chếch chếch,
Sương mặt đất ứa
dầm dầm.
Rừng kia bồ cốc
còn khuya gióng,
Làng nọ nông
phu đã thức nằm.
Bóng ác đông trời
đã rạng,
Tiếng gà thôi
trổi tiếng hàn châm.
Gọi là thơ Lục
Ngôn mà cây bảy chữ chiếm hết phân nửa! Kể cũng đã hơi lạm. Thế mà còn có lắm
bài câu bảy lại nhiều hơn câu sáu!
Đây một bài có đến
năm câu bảy và chỉ ba câu sáu trích trong Quốc Âm Thi tập của Nguyễn Trãi:
Lộc trời cho đã
có ngần
Tua hay thửa phận
chớ phàn nàn.
Giàu nhiều của
con chẳng có
Sống hơn người
mệnh khó khăn.
Hễ kẻ danh thơm
hay được phúc,
Mấy người má đỏ
phải nhiều lần.
Vắn dài được mất
dù thiên mệnh,
Trải quái làm
chi cho nhọc nhằn.
Vua Lê Thánh Tông
cũng rất ưa dùng thể Lục Ngôn, và có lắm bài số câu bảy lấn số câu sáu, như
Nguyễn
Trãi:
TỰ THUẬT
Lòng vì thiên hạ
những lo âu,
Thay việc Trời
dám trễ đâu.
Trống dời canh
còn đọc sách,
Chiêng xế bóng
chửa thôi chầu.
Nhân khi cơ biến
xem người biết,
Chờ thuở kinh
quyền xét lẽ mầu.
Mỡ ểu áo vàng
chăng có việc,
Đã muôn sự nhiệm
trước vào tâu.
Cụ Nguyễn Bỉnh
Khiêm cũng có lắm bài như thế. Ví dụ:
Làm người chen
chúc nhọc đua hơi,
Chẳng khác nhân
sinh ở gởi chơi.
Thoa nhật nguyệt
đưa thấm thoát,
Áng phồn hoa
khá nhạt phai.
Hoa càng khoe nở
hoa nên rữa,
Nước chứa cho đầy
nước ắt vơi.
Mới biết doanh
hư là có số,
Ai từng dời được
đạo trời.
Xem ba bài trích dẫn,
chúng ta nhận thấy số câu bảy chữ tuy lấn nhưng vị trí quan trọng trong bài thơ
bát cú là cặp trạng vẫn dành cho câu sáu chữ, và những cây bảy chữ không có vị
trí nhất định, như trên đã nói.
Gọi là Lục Ngôn mà
những câu bảy chữ lấn những câu sáu chữ như thế là khách lấn chủ, theo thường
tình mà xét, thì cũng đã “khó coi” lắm rồi. Vậy mà còn thấy lắm bài gồm đến sáu
câu bảy chữ, và chỉ có hai câu sáu chữ, như:
Bài VIÊN PHỐ QUI
PHÀM của Nguyễn Xung Ý đời Thịnh Lê:
Bãi tạnh thuyền
ai bến liễu đời,
Buồm về nơm nớp
mé bên trời.
Lèo ăn gió dầu
dùi thẳng,
Cánh bíu mây mặc
lộng khơi.
Thuyền tếch
thênh thênh chèo nhẹ nhẹ,
Khói tan thức thức
lục ơi ơi.
Có người tác hứng
chưng khi ấy,
Nước Sở sông
Ngô mặc vẽ vời.
Trong bài tuy
khách lấn chủ, nhưng vẫn còn dành cho chủ một địa vị xứng đáng. Chủ nhân còn được
ngồi nơi “ghế danh dự”. Có nhiều khi Chủ nhân trở thành Thượng khách mời tới để
hoặc “ban huấn từ”, hoặc “phát biểu cảm tưởng” thay thế cho lời “tuyên bố bế mạc”.
Ví dụ:
VỊNH MỸ Ê
Thờ chúa thờ chồng
hết tấc thương,
Một mình lọn đạo
việc cương thường.
Non thiêng dễ
hóa hồn Tinh Vệ
Nước biếc khôn
nhìn mặt Phạn Vương.
Dòng bạc thề
cùng thu có nguyệt,
Sử xanh chép để
bút còn hương.
Rày mừng thấy
tin rồng đến,
Phủ mưa rào khắp
bốn phương.
Thậm chí có bài chỉ
có vỏn vẹn một câu sáu chữ nằm hoặc ở khởi hoặc thừa, hoặc chuyển, hoặc kết. Ví
dụ:
Bài NGƯ THÔN TỊCH
CHIẾU của Nguyễn Xung Ý:
Lúp xúp bên
giang bảy tám nhà,
Trời xoay bóng
ác giải tha la.
Chan chan thuyền
đỗ đầu doi liễu,
Sát sát chài
bơi cuối vũng hoa.
Pha khói chim về
cây điểm phấn,
Quáng dòng cá đớp
nước tuôn la.
Có người đợi
nguyệt chèo khoan vẩy
Trổi Thương
lang một tiếng ca.
Chỉ có một câu sáu
chữ mà cũng gọi là thơ Lục Ngôn. Xem thế thì đối với thơ, DANH không cần phải
CHÍNH như đối với Đạo Đức Luân Lý. Cổ nhân đặt ra LUẬT THƠ, đặt ra nguyên tắc,
qui củ này nọ chỉ để hướng dẫn tứ thơ đi cho khỏi lộn xộn mà thôi, chớ không
coi đó là “khuôn vàng thước ngọc bất khả di dịch”, nghĩa là không cố chấp. Nhà
thơ tùy nghi thay đổi cho hợp với nguồn cảm xúc, luồn tư tưởng… của mình. Trong
thơ Lục Ngôn có chen thơ Thất Ngôn vào là do lòng không câu nệ của cổ nhân vậy.
Nhiều bạn thanh niên chưa có dịp nghiên cứu, đọc những bài Lục Ngôn có chen nhiều
câu thất ngôn, nhất là những bài chỉ có một câu lục ngôn, thì tưởng là người
sao lục chép sai.
Thơ Lục Ngôn thịnh
hành thời Thịnh Lê và thời Mạc.
Đó là vì thời Lê Mạc
hàng sỹ phu trong nước chịu ảnh hưởng Nho Giáo rất sâu đậm, bởi thời buổi ấy
Nho giáo độc tôn. Con người sống về lý trí nhiều hơn tình cảm. Mà lý trí ưa những
gì rõ ràng gãy gọn. Thể Lục Ngôn âm điệu ngắn gọn, giống như những tiếng săn tiếng
đá, nghe khô khan cứng rắn, phù hợp với nhịp lòng của người đương thời, nhất là
hàng trí thức học vấn. Cho nên được thịnh hành là lẽ tất nhiên.
Rồi sang thời Lê
Trung Hưng, thời thế đổi thay, xã hội có một sắc thái đặc biệt. Tâm hồn con người
bị hoàn cảnh chi phối. Những bức thành đạo lý bị rung rinh rồi lần lần tan vỡ.
Phạm vi cảm hứng mở rộng. Giá trị văn chương không còn bó hẹp trong vòng đạo đức
luân lý nữa, mà mỗi ngày sức tác động về tình cảm mỗi phong phú thêm. Cho nên
thể Lục Ngôn không còn thích hợp, bị các thi nhân bỏ rơi. Đến triều nhà Nguyễn
thì bị quên hẳn, đến nỗi có người không ngờ rằng có thể LỤC NGÔN.
[1] Đó là theo bài tựa
của Trần Khắc Kiệm đề ở Ức Trai di tập. Song có người bàn rằng đây là tình cảnh
lúc tác giả bị Lê Thái Tổ bắt bỏ ngục về vụ án Trần Nguyễn Hạn, được ít lâu rồi
được tha ra ở tạm nơi góc thành Nam.