Văn
chương của cụ NGUYỄN TRỌNG TRÌ về bên Hán tự đã được cụ Huỳnh Thúc Kháng ca tụng trong tập Thi Tù
Tùng Thoại. Ở đây chỉ xin giới thiệu một ít thi ca Quốc âm.
Và
trước khi nói đến văn chương, xin nói qua về thân thế của cụ.
Ở
Bình Định các sỹ phu thường gọi cụ Nguyễn là cụ Nghè Vân Sơn chớ ít khi gọi
tên. Đó là do lòng kính trọng bậc có tài có đức, có danh vọng cao.
Vân
Sơn là tên làng của cụ.
Cụ
Vân Sơn được hàm Hàn Lâm là vì cụ đậu cử nhân và có xuất sỹ. Cụ làm tư vụ cơ mật
dưới quyền Tôn Thất Thuyết.
Tôn
Thất Thuyết là người tàn bạo, những quan lại lớn nhỏ đều sợ khiếp via. Nhất là
các quan hành tẩu, thường gọi là ông Nghè, mỗi lần ôm trắp công văn đến hầu chữ,
là mỗi lần khổ tâm. Phải chầu chực cả buổi mới được vào hầu. Lắm khi còn bị
trách mắng thậm tệ! Cụ Vân Sơn cũng là một trong những vị quan bưng trắp đi hầu
chữ. Nhưng được Tôn Thất Thuyết biệt đãi. Ông Thuyết biệt đãi cụ là vì cụ không
sợ uy quyền, hễ thấy việc trái là nói, nghe lời trái là cãi, và ông Thuyết biết
cụ là người có tài lại có tâm huyết. Ông Thuyết biết tài cụ từ khi cụ chưa vào
ngạch quan lại.
Nguyên
một hôm nhân trời mưa vua Tự Đức ra câu đối:
- Thủy trích bích tường sanh khổng tử.
Nghĩa
là: “Nước mái hiên nhỏ xuống thềm sanh những giọt nho nhỏ không đứng yên”.
Đình
thần không ai đối được.
Không
đối được là vì chữ “Khổng tử” vừa là những giọt nước nhỏ không đứng yên, vừa là
tên của đức Thầy muôn đời.
Lúc
bấy giờ cụ Vân Sơn đương nằm nơi quán trọ chốn Thần Kinh để đợi bổ dụng. Nhân
quen cùng người thân cận ông Thuyết nên biết được câu đối của nhà vua. Ngồi
nhìn ra hồ sen trước quán, thấy lá biếc gió lay, cụ cao hứng đối ngay câu đối vừa
nghe đọc:
- Phong xuy hà diệp kiến nhan uyên.
Nghĩa
là: “Gió thổi lá sen làm cho người trông thấy mặt ao”. “Nhan uyên” vừa là mặt
ao vừa là tên một vị trong bảy mươi hai ông hiền môn đồ đức Khổng Tử.
Ai
cũng khen là tài.
Được
một người có tài ở dưới quyền mình, ông Thuyết cũng rất lấy làm hãnh diện, cho
nên đối với cụ Vân Sơn có phần kiêng nể yêu vì. Tuy
thế cụ không cho là vinh. Cụ có bài thơ tự trào:
Tro
mạc thương thay mấy chú nghè
Biểu
đừng bớn tớn biểu đừng khoe
Ngày
hai cơm quán ăn qua bữa
Tháng
một lương vua lãnh lấy lề.
Chỉ
thắm đeo bài trông cũng lịch
Trắp
sơn hầu chữ gẫm mà ghê.
Chi
bằng lơ láo quan trên quở
Cho
nữa làm chơi chẳng nữa về.
Được
ít lâu, kinh thành Huế thất thủ. Chê ông Thuyết là người ngu lỗ không đảm đương
được việc lớn, cụ bỏ về Bình Định cùng anh hùng Mai Xuân Thưởng ứng nghĩa Cần
Vương.
Nghĩa
binh Cần Vương bị bại, các võ tướng đều tuẩn quốc. Cụ là văn quan được tha chết,
về sống một cuộc đời ẩn dật lấy thơ rượu dạy học làm vui cùng ngày tàn.
Thơ
Quốc âm cũng như thơ Hán tự của cụ còn truyền được nhiều. Vì cụ có nhiều học
trò thành đạt. Mỗi người nhớ một ít, tích thiểu thành đa.
Văn
chương Quốc âm của cụ rất thanh lão, như bài “Ông Nghè”. Cũng lắm bài hùng
tráng. Như bài Vịnh Cây da, cặp trạng:
Chẳng
cán tham thiên sao có một
Cũng
tàn tuế nhật mới nên ba.
Hoặc
bài VỊNH CHỮ TRUNG:
Nghiêu
Thuấn truyền nhau một chữ Trung
Xưa
qua nay lại ngõ đi chung.
Lớn
dường chưa thấy khuông trời đất
Gần
thiệt từ nơi cuộc vợ chồng.
Thấp
đến kẻ ngu không vói tới
Cao
lên người trí cũng nào mong
Đã
lòng mộ đạo thời nên gắng
Nghiêu
Thuấn truyền nhau một chữ Trung.
TRUNG
đây là trung dung, là trung hòa.
Và
bài này rút những điểm cốt yếu của chữ TRUNG để đúc thành thơ. Muốn hiểu thấu
triệt ý nghĩa thì nên đọc Khổng Học Đăng của Phan Sào Nam và Nho Giáo của Trần
Lệ Thần. Ở đây chỉ là Vườn Hoa Thơ chớ không phải Vườn Hoa Đạo, nên chỉ xin đưa
ra những “điển” khó, để bạn đọc dễ nhận thức cái hay cái đẹp trong bài thơ mà
thôi.
Trước
hết xin nói qua về nghĩa chữ TRUNG:
TRUNG
là chính đáng, cân bằng, không chếch lệch, không thái quá, không bất cập.
Đạo
TRUNG rất khó theo. Để theo cho đúng, vua Nghiêu truyền cho vua Thuấn:
-
Duy tinh duy nhất, doãn chấp quyết trung.
Tức
là dạy vua Thuấn phải giữ tâm mình cho tinh thuần và chuyên nhất thì mới có thể
theo đúng được đạo Trung.
Rồi
vua Thuấn truyền xuống cho vua Vũ:
-
Nhân tâm duy nguy, đạo tâm duy vi; duy tinh duy nhất, doãn chấp quyết trung.
Tức
là vua Thuấn muốn cho vua Vũ hiểu rõ hơn, mới thêm vào đoạn đầu “Nhân tâm duy
nguy, đạo tâm duy vi” nghĩa là “tâm người thì nguy, tâm đạo thì vi” cho nên phải
giữ tâm mình cho tinh thuần và chuyên chất thì mới giữ được đạo Trung.
Đó
là “điển” dùng trong câu phá đề.
Cặp
trạng mượn ý trong sách Trung Dung:
-
Quân tử chi đạo tạo đoan hồ phu phụ, cập kỳ chí giã sát hồ thiên địa.
Phan
Sào Nam giải thích câu này rất cặn kẽ, rằng: Bởi vì đạo của quân tử là chân lý
sở dĩ có ra loài người, mà loài người sở dĩ sinh hoạt được mãi mãi cũng chỉ
sinh hoạt ở trong vòng chân lý ấy. Nguyên lúc đầu sở dĩ có vũ trụ có loài người,
chỉ vì nhất âm nhất dương tự nhiên hòa hiệp mà sanh ra trời đất muôn vật; gây mối
cho đạo người thì bắt đầu chỉ một trai một gái thành vợ chồng mà sau mới có cha
con anh em cho đến thảy cả loài người trong thế giới. (Tạo đoan hồ phu phụ).
Chữ
PHU là nói chung về phần trai. Chữ PHỤ là nói chung phần gái. PHU là nhất dương
lử trong chữ ĐẠO. Kinh Dịch đã nõi: “Nhất
âm nhất dương chi vị Đạo”. Cho nên nói “Phu phụ là mối tại ra đạo của quân
tử”. Nhưng Đạo tuy tạo đoan ở nơi phu phụ, mà há phải chỉ phu phụ mà hết được
công dụng của Đạo đâu. Do nơi phu phụ suy ra cho triệt để thì dầu thiệt cao cho
đến tận trời, thiệt rộng cho khắp mặt đất, thì cũng chỉ là chân lý của nhất âm
nhất dương, tràn trề rực rỡ, không biết bao giờ là cùng tận. Cho nên nói: “Cập kỳ chí giã sát hồ thiên địa”… Nói là
“sát hồ thiên địa”, bởi vì thiên địa là phu phụ lớn, mà phu phụ tức là thiên địa
nhỏ; người với trời đất chung nhau một chân lý tự nhiên mà thôi.
Lời
giải thích của Sào Nam tiên sinh vừa làm sáng nghĩa câu sách, vừa làm rõ ý câu
thơ. Mượn đem vào đây thật là nhất cữ lượng tiện.
Câu
luận bài thơ, tác giả mượn lời đức Khổng Tử:
-
Đạo chi bất hành dã, ngã tri chi hỹ: Trí
giả quá chi, ngu giả bất cập dã.
Nghĩa
là:
-
Đạo Trung Dung sở dĩ không thi hành được, ta đã biết cớ vì sao. Đó là do loài
người có hai hạng, một hạng tư chất cao trí thức rộng gọi là người trí, một hạng
tư chất quá ư thấp trí thức quá ư hẹp gọi là kẻ ngu. Người Trí thường thường xu
hướng cực đoan mà làm việc vượt qua trung dung; người Ngu thường mắc bệnh tự
khí nên đến khi làm việc chẳng bao giờ theo kịp trung dung.
Cặp
trạng thích thực chữ TRUNG.
Cặp
luận giải thích vì sao đạo TRUNG lại bất hành và ngầm khuyên kẻ học đạo chớ
theo người Trí đi thái quá, cũng đừng theo người Ngu mà trở thành bất cập.
Dư
ý của lời khuyên được cô đọng lại ở câu chuyển, để nhấn mạnh một lần nữa ý
nghĩa và mức quan trọng của chữ TRUNG đã nói ở câu đề.
Chỉ
vỏn vẹn tám câu thơ mà nói được Đạo TRUNG tương đối đầy đủ như thế, thì lòng phải
thấm nhuần Đạo, bút phải sẵn sàng tài. Bằng không thì chỉ là kết quả của công
trình “trói voi bỏ rọ”.
Bài
VỊNH CHỮ TRUNG thuộc lối thơ tải Đạo mà các bậc túc nho thường dùng.
Bên
cạnh những bài thơ đạo, cụ cũng có những bài thơ tình. Như:
GỞI
NHẮN NGƯỜI TIỂU TINH
Nửa
năm hơi tiếng mới làm quen
Hương
lửa bao đành phụ tấc nguyền
Khắng
khít nợ đà mang lấy nợ
Đèo
bòng duyên cũng nặng vì duyên
Non
xa tin nhắn nhàn khôn thấu
Nước
thẳm thơ trông cá luống phiền
Tình
có soi cùng hay chẳng nhẽ?
Mựa
đam ai bạc trách ai đen.
Nguyên
cụ đã lớn tuổi mà chưa có con trai, nên phải cưới tiểu tinh hầu mong khỏi mang
câu bất hiếu. Nhưng về ăn ở được nửa năm thì đành phải kẻ Nam người Bắc, bởi vì
bà chính thất không có lượng bao dung. Bài thượng dẫn là thư cụ gởi cho người
cũ.
Chân
tình chan chứa!
Đọc
bài này sao khỏi liên tưởng đến câu “Gần thiệt từ nơi cuộc vợ chồng” trong bài
VỊNH CHỮ TRUNG, à nhận thấy câu đó chẳng những chí lý mà còn hữu tình, chứng tỏ
rằng tác giả không phải là người khô khan chỉ sống theo lý trí.
Cụ
là người giàu tình cảm và tuy tánh hiên ngang, lòng chánh trực, cụ thường bị
tình cảm lôi cuốn. Ví dụ:
Một
hôm cụ đi chợ Tết, mình mặc chiếc áo đoạn của một người học trò cũ may tặng.
Tình cờ cụ gặp quả phụ của người bạn đồng chí. Hỏi thăm gia thế biết rằng mẹ
con sống trong cảnh bần hàn, cụ liền cởi chiếc áo đoạn:
-
Chị hãy đem bán đi để sắm chút đỉnh gì cho lũ cháu.
Bà
quả phụ chưa kịp ngỏ lời, cụ bỏ áo vào rổ bà ta, rồi vội vã đi thẳng, lưng phơi
trần vì không mặc áo lót.
Thường
thường cụ rất nghiêm, lắm khi nghiêm đến khắc! Những môn đồ, nhiều người đã có
địa vị trong xã hội mà rủi có điều sơ xuất lọt vào tai mắt cụ, thì nhất định là
bị quở trách nếu là lỗi nhẹ và bị đánh đòn nếu
tội nặng. Một ông hương hào bị căng đánh trước sân đình Phú Phong vì ham chơi
tài bàn, ba vị tân khoa bị căng đánh tại chợ Vân Sơn vì ham xem hát quên giữ lễ
phép.
Nghe
những chuyện ấy, nhiều người tưởng rằng không bao giờ cụ cười cợt bông đùa. Sự
thật, cụ không hay câu nệ, và những khi không có điều bực tức trong lòng thì rất
hiền từ vui vẻ. Để mua vui, cụ thường làm thơ châm phúng hài hước. Song vui đùa
chừng mực, chớ không bao giờ đi đến chỗ khinh bạc như Tú Xuất Tú Xương. Xin
trưng một bằng chứng:
KHÔNG
CHỒNG TRÔNG BÔNG LÔNG
(Dĩ
đề vi vận)
Lẽ
thường ắt có cớ sao không?
Trong
đục mơ màng khổi nỗi chồng!
Gần
ước tiện nơi xa cũng ước
Sớm
trông gặp hội muộn càng trông
Thẹn
thùng hiên nguyệt người chào bóng
Mong
mỏi vườn xuân khách bẻ bông
Ướm
hỏi thế tình hay chăng nhỉ?
Trông
bông lông vậy nhớ bông lông.
Những
thơ Đường luật của cụ hầu hết văn chương đều tao nhã như các bài thượng dẫn.
Tôi
được đọc một số bài làm theo thể lục bát, song thất lục bát, ca trù…, lời thơ
cũng rất trôi chảy óng chuốt. Rất tiếc hiện không có trong tay để đưa ra cho bạn
đọc đồng lãm.
Ngoài
ra cụ còn để lại hai bổn tuồng hát bội là Lý Phụng Đình và Phụng Hoàng Anh. Về
tuồng Lý Phụng Đình ở Bình Định có câu ca dao:
Bầu
Đông đóng Lý Phụng Đình
Dù
chồng có đánh thì mình cũng đi. (đi coi hát).
Chắc
sự nghiệp văn chương của cụ Vân Sơn không bị thời gian và binh hỏa phá hoại. Vì
cụ có con cháu nối nghiệp, nhất là các bà con gái, bà nào cũng biết làm thơ,
như bà tú Năm ở Phú Phong là một. Nếu ra công sưu tầm hẳn sẽ gặp được nhiều
vàng ngọc.
[1] Ông Nghè: Ở ngoài Bắc
những người đậu tấn sỹ mới gọi là ông Nghè. Còn ở Trung từ Huế trở vô, những
người được hàm Hàn Lâm viện, dù chỉ biết vài ba chữ, cũng được gọi là ông Nghè.
Các ông hành tẩu “trắp sơn hầu chữ” cũng thường gọi là “quan Nghè”.
Ở Bình Định “Nghè” do
tiền bạc mà có, hoặc do công tác xã hội mà có, khá nhiều. Hiện nay vẫn còn có
người lấy làm vinh, thường đem “chưng” nơi đám tiệc. Nhân đọc bài thơ của cụ
Nghè Trì, một người nói: “Nghè thật mà kẻ trí thức còn cho là tro mạc, huống hồ
nghè xin nghè mua”.