Không
con cháu nối nghiệp là ông NGUYỄN QUÍ LUÂN.
Tôi
đã chứng kiến một cảnh thương tâm không sao quên được:
Năm
1929, như trên đã nói, tôi đi sưu tầm thơ Nôm Bình Định. Nghe tiếng thầy Bảy Phồn
ở Phú Văn (thuộc làng Phú Phong, quận Bình Khê) [1] thuộc được nhiều
thơ cũ, tôi tìm đến, và được đón tiếp ân cần. Thầy nói rất nhiều về NGUYỄN gia
phụ tử và cho biết rằng thầy là học trò của ông Nguyễn Quí Luân. Sau khi đọc
cho tôi chép một ít thơ của cụ tú Khuê, cụ nghè Trì, ông Nguyễn Bá Huân, thầy đọc
cho nghe bài MẠ BẦN của ông Nguyễn Quí Luân mà thầy thích nhất:
Tám
kiếp cha ông cái vận nghèo
Đã
đi trốn nó nó còn theo
Vãi
ba hột cải không thèm mọc
Trồng
một dây bầu chẳng muốn leo
Bài
xạo bát bồng lên cả cặp
Me
tam chú khách mở ra yêu
Như
vầy nghĩ thật đã vô vận
Tết
nhất gần đây hết ngõ tiêu.
Thầy
ngâm một cách thích thú, tiếng ngâm sang sảng.
Nhận
thấy văn chương chất phác, tôi hỏi:
-
Ông cụ chắc hiền lành lắm?
-
Vâng, tuổi còn trẻ mà tánh tình thuần hậu như người sáu bảy mươi. Có lẽ vì vậy
mà không thọ.
Thầy
trầm ngâm giây lâu rồi nói tiếp:
-
Thầy tôi tuyệt tự. Đệ tử hiện còn một mình tôi. Tôi đã tưởng thầy tôi không còn
ai nhắc nhở đến khi tôi tạ thế. Không ngờ lại gặp cậu lo bảo tồn di sản tinh thần
của tiền nhân. Tôi sung sướng quá! Thơ Nôm thơ chữ của thầy tôi, tôi chép thành
tập có trên vài trăm bài. Để tôi lấy trao cho cậu.
Đoạn
bắc thang leo lên lá mái lấy xuống một cuộn giấy gói thật
kỹ trong một mo cau, bụi và váng nhện đóng đầy. Thầy trịnh trọng mở ra thì,
than ôi! Giấy bị mối ăn nát hết!! Thầy bưng mặt khóc:
-
Sao mà vô mệnh thế này! Con trên đời đã không có, chỉ có chút sự nghiệp lưu thế
mà trời cũng nhẫn tâm làm tan nát thế này! Thật đau lòng quá!
Than
rồi, đem mớ giấy tàn ra giữa sân, đốt hương khấn vái. Đoạn chân lửa đốt lấy tro
bỏ lên đầu hàng rào dúi ở trước ngõ, và lau nước mắt than:
-
Thế là hết!!
Tôi
bị xúc động mạnh! Lòng yêu kính thầy học và quí trọng văn chương như thầy Bảy
Phồn thật là hiếm! Tôi hỏi:
-
Thầy có thuộc được nhiều chăng?
Thầy
bệu bạo đáp:
-
Làm gì thuộc được, vì nhiều quá. Thêm nữa thầy tôi mất lúc tôi mới hai mươi tuổi,
nay đã gần ngũ tuần rồi, dù lúc nhỏ có thuộc, lúc này cũng quên. Bài thơ MẠ BẦN
vì hợp cảnh hợp tình với tôi nên tôi mới nhớ kỹ.
Tôi
toan hỏi, song chưa kịp hỏi vì sao lại để cho tập thơ bị mối ăn mà không biết,
thì thầy nói tiếp dường như đón được ý tôi:
-
Tôi cất quyển thơ của thầy tôi gần 30 năm này. Năm nào tôi cũng đem ra phơi.
Hai năm nay trong nhà túng bấn quá, tâm trí dồn vào cả việc chạy ăn từng bữa
nên quên lửng tập thơ! Rõ là “vạn tội bất như bần”!
Từ
ấy hình ảnh của thầy bảy Phồn in sâu vào tâm khảm tôi và sự kiện kia làm cho
tôi thêm quí trọng những di cảo của người trước. Hễ nghe được một bài thơ xưa
dù không hay lắm tôi cũng chép lại với tấm lòng thành.
***
Cụ
tú NGUYỄN KHUÊ và bốn ông con, “tình nghĩa” nửa thuộc Bình Khê nửa thuộc An
Nhơn. Hoàn toàn An Nhơn thì có cụ NGUYỄN ĐỨC NHUẬN và cụ NGUYỄN ĐÔN PHỤC.
Cụ
NGUYỄN ĐỨC NHUẬN, đậu tú tài, thân nho nhã mà lòng mang vũ trụ. Cụ ứng nghĩa Cần
Vương và tuẩn quốc một lần cùng anh hùng Mai Xuân Thưởng.
Văn
chương bặt thiệp. Nổi tiếng hay chữ từ lúc còn nhỏ. Nổi tiếng do một cuộc thi
thơ của quan Tổng Đốc Bình Định dưới triều Tự Đức. Thi thơ Quốc âm, đề thi là
“Gái lấy chồng già” và hạn: Từ Thứ vận, thượng cầm, hạ thú, nhất cú nhất vị được.
Quyển
nạp hàng trăm. Bài cụ được chấm giải nhất:
Chim
quyên bả đậu nhánh choi voi
Mang
bạch đầu ông nõ mặn mòi
Phụng
ước thung dung ăn trái trúc
Thỏ
đâu cam toại ấp nhành còi
Liên
kiều thước bắt so le nhịp
Sơn
giác ngựa leo hụt chạc roi
Loan
chạ từ cô đừng chuyện ấy
Kén
lừa quân tử giá ngàn thoi.
Thật
“điêu trùng tuyệt kỷ”. Quan Tổng Đốc thưởng một cây lụa đậu tư và hai nén bạc.
Đó
là thơ buổi nhỏ còn sót lại. Tuy là thơ chơi, song vẫn ẩn chứa chí khí của kẻ
làm trai: giữ vững tiết tháo, dù nghèo khó vẫn không chịu đem thân phục vụ cho
kẻ có quyền thế mà thiếu thiên lương, cũng như người con gái thà chịu ế chồng
chớ không thèm lấy người già cỗi.
Tương
truyền thơ cụ làm nhiều. Song sau khi cụ bị cường quyền cho là giặc, thì không
ai còn dám giữ dám đọc văn chương của cụ, thành ra bị mai một lần lần. Tôi chỉ
nghe truyền được năm ba câu cụ làm lúc cùng Mai anh hùng chung lo việc nước:
-
Ngọn rau tấc đất nhờ ơn nước
Kiều
ngựa thanh gươm trả nợ trai.
-
Mài nguyệt chi lo đầu sớm bạc,
Nhắp
thù đã thấm mật càng ngon.
-
Biển chửa lấp bằng chim chửa nghỉ
Đường
càng xa vút ngựa càng hăng.
-
Vó ngựa gập ghềnh mây ải nhạn
Hồn
quyên não nuột gió đêm trăng.
Đó
là những mảnh lòng gởi vào thiên cổ. Rất tiếc không tìm
được trọn luật và được nhiều câu, để cùng các bạn gần xa thưởng thức.
Cụ
NGUYỄN ĐÔN PHỤC nổi tiếng về bài “Bằng Hữu Kim Ký” dùng toàn tục ngữ chép
thành:
Người
trong trời đất,
Học
dõi thánh hiền.
Sang
giàu đã có máy thiên,
Thương
ghét mặt dù tình thế.
Cha
nói ngang quan nói hiếp, hiếp ngang phận phải chìu lòn;
Cú
rằng có vọ rằng không, không có công mô đội chối.
Đất
đã đắp, đắp cho nên núi, chín chày phải gắng công lao;
Đường
dù đi, đi dốc tới nơi, nghìn dặm chi nài khó nhọc.
Có
thân phải cóc, có vóc phải toan.
Đừng
theo người múa gậy vườn hoang,
Chớ
học kẻ trống qua cửa sấm.
Nghề
tài trí xem còn chưa lắm, hát xay lúa múa lại tắt đèn;
Mỗi
nhân duyên gẫm lại biết hèn, khóc hổ ngươi cười ra nước mắt.
…………………………………
Bài
dài đến trên trăm câu, đối chọi nhau rất chỉnh, và mạch lạc rất sít sao.
Mục
đích sáng tác là để ngụ ý châm phúng các quan đầu tỉnh Bình Định, trong lúc cụ
làm tri huyện Bình Khê. Nghe rằng cũng vì bài này mà quan Tỉnh kiếm chuyện làm
cho cụ bị cách chức.
Lúc
cụ ngồi tri huyện Bình Khê, thường nhóm bạn văn chương đến xướng họa.
Một
hôm, nhân người nhà sắp làm thịt một con gà cồ để làm gỏi đánh chén, một ông bạn
đề nghị làm một bài hịch lên án gà cồ trước rồi hạ sát sau. Một bài được ai nấy
khen là xuất sắc:
Tánh
ưa bôi mặt,
Sao
chẳng biết thân?
Thoát
Mạnh Thường tài gã thấy đâu, chẳng qua là mô hồ tiếng khách nhân, nghìn thuở
cũng khoe khoang công cứu nạn;
Khuông
Đường thất mặt ngươi sao vắng, để đến nỗi lẫy lừng hơi Võ thị, bất nhiêu năm
inh ỏi giọng tư thần!
Đức
nghiệp gì đầu đội văn quan, trau chuốt xuê xoang hoài phấn nước;
Tài
cán mấy chân đeo võ cự, lăm le bươi chải nát nhà dân!
Trời
tạnh sáng chưa kêu, công báo biểu không xong một nỗi;
Mổng
cối xay ăn quẩn, tội xẻ phay đã đáng mười phân.
Cụ
huyện Phục xem qua rồi cười:
-
Các anh làm căn ưng nói lớn lối, mà nội dung rỗng như bồ trống!
Thấy
các bạn chưa hiểu ý, cụ nói tiếp:
-
Phàm lên án thì phải dựa luật. Những tội trạng nêu trong bài hịch kia phạm vào
điều luật nào? Phạt vi cảnh còn chưa được huống hồ buộc đến tội “xẻ phay”.
Tác
giả bài hịch thách:
-
Thì quan lớn buộc tội xem.
Cụ
liền đọc:
Mái chẳng chịu
cũng lên lưng, coi sức nó đã ngang quá ghẹ;
Con có kêu thời
mặc cẳng, sá chi mầy mới ló đuôi tôm.
Và
nói:
-
Tội hiếp dâm và hiếp cô, mỗi ngày phạm không biết mấy trăm lần, rõ đáng khép tử
tội. Không còn kêu ca vào đâu.
Ai
nấy đều vỗ tay cười lớn:
Cụ
NGUYỄN ĐÔN PHỤC có tài xuất khẩu thành thơ. Cụ có tài làm thơ từ lúc nhỏ.
Một
hôm cùng các bạn đi học về, gặp một cô con gái nhà giàu trong một nơi vắng vẻ.
Các bạn thách cụ làm thế nào bóp vú cô ả mà không bị đánh bị chưởi. Cụ liền bước
đến gần cô con gái, vừa đi vừa đọc:
Đã bấy nhiêu lâu
gặp chị này
Lấy chi cho thỏa
tấm lòng đây?
Kề vai đọ thử
lưng cao thấp,
(vừa xích lại gần
vừa đọc tiếp)
Xuống cánh rờ
xem yếm mỏng dày.
Miệng
đọc tay làm theo miệng. Cô ả vì tai mắc nghe thơ
nên trí không rảnh rang để phản ứng kịp thời. Cụ đọc tiếp:
Cũng đã thỏa
tình trăng giỡn thỏ
Nhưng chưa phỉ
chí nhạn trông mây.
Bên đường vắng vẻ
không ai biết
Vuốt giận thôi
thôi chị chớ ngầy.
Một
lần nữa cụ thực hiện thuyết “ngôn hành hiệp nhất”.
Thật
là mẫn tiệp!
Các
học trò ngày xưa không biết tán gái, mà chỉ biết chọc gái. Bóp vú là một cách
chọc. Gái bị chọc, thường “đáp từ” bằng những câu không mấy êm tai, lắm khi còn
vào trường mắng vốn thầy là khác. Cho nên thơ “bóp vú” có những câu:
-
Con cháu nâng niu đôi nấm đất
-
Tay ngọc nâng niu đôi chúa trẻ
-
Quảng vắng dần lân tay đớp nhụy
-
Ngực tròn chi lắm tay sanh ngứa
Miệng
lấp không xong đít nổi vồng. 4
Hai
câu trên tả cảnh bị gái chửi. Hai câu dưới tả cảnh bị thầy đánh. Cụ huyện Phục
tránh được cả hai nạn. Cho nên ai cũng khen là tài.
Tài
nghệ lanh lẹ như cụ Nguyễn Đôn Phục thì nhất định sáng tác phải có nhiều. Nhưng
vì chưa có người ra công sưu tầm, nên đành thưởng thức chừng nấy.
[1] Tên chữ là Trần
Hoàng, nhưng tên này ít người biết. Tên tộc là Bích, còn Phồn là tên con. (Ở
Bình Định thường lấy tên đứa con đầu lòng mà gọi cha mẹ).
[2] Ý nói bỡn: “Bút bén
như đao” tức là giết người bằng bút.
[3] Thơ của Phan Sào Nam.
[4] Thơ của Trương Đăng
Quế. (Đã nói ở chương thi sấm).
Tiếng Bình Định đọc những chữ có
G và không G như nhau nên chữ Vắng lầm với chữ Vắn, nên Trường đối với Vắng
(Vắn) quí cụ thích thú lắm: Đối tiếng tức bạch đối.
Chữ Miệng lấp cũng có vị; vừa
mượn chữ trong câu tục “cả vú lấp miệng em” vừa thủ nghĩa không làm cho cô gái
mạnh miệng được.