Cách
đây 35 năm, tôi được đọc và chép lại một tập thi nhan là KIM VÂN KIỀU THI TẬP gồm
trên vài chục bài Đường luật cũng vịnh từng hồi của truyện Kiều như tập thơ của
Chu Mạnh Trinh. Tập thơ đó xuất bản đã lâu và không có tên tác giả. không biết
có phải thơ dự thí trong cuộc thi Vịnh Kiều do quan Tuần Vũ Lê Hoan tổ chức mà
Chu Mạnh Trinh đã giật giải quán quân đó chăng? Có chỗ ngờ như thế là vì tuy
cũng vịnh từng hồi của Truyện Kiều, song việc chia hồi trong tập này không giống
hẳn tập của họ Chu. Nhiều đề mục ở tập này có, ở tập họ Chu không có, ở tập họ
Chu có, ở tập này không có. Mà phép thi cử thì thí sinh đều phải theo một qui tắc.
Về
mặt văn chương thì tập này không sánh kịp tập của Chu Mạnh Trinh. Tình tứ cũng
không bì được.
Đây
chúng ta thử so sánh đôi ba bài trong tập này với những bài chúng ta đã đọc của
họ Chu:
KIỀU
ĐI THANH MINH
Đầu
tiết xuân sang liễu rũ mành,
Dập
dìu ai cũng hội Thanh Minh.
Tro
tiền rải rắc đường xe ngựa,
Gò
đống gần xa nức yến anh.
Nắm
đất thương đau người chín suối,
Bên
cầu gặp gỡ khách ba sinh.
Tình
kia nỗi nọ càng lai láng,
Trở
gót hài hoa ác đã chênh.
Bức
tranh xuân này có vẻ tầm thường, không khêu gợi không hấp dẫn. Và cũng thì nói
đến “người chín suối, khách ba sinh”, mà câu của họ Chu:
Phận
bạc ngậm ngùi người chín suối,
Duyên
may run rủi khách ba sinh.
làm
cho chúng ta rung cảm, đọc xong vẫn còn thấy vị ngòn ngọt của hớp trà Võ Di
Sơn. Còn đọc câu:
Nắm
đất thương đau người chín suối,
Bên
cầu gặp gỡ khách ba sinh.
thì
chúng ta không thấy cảm động về nỗi thương đau, và vui mừng cho sự gặp gỡ.
Nghĩa là lòng ta vẫn dửng dưng. Đó là vì câu sau thiếu sức truyền cảm. Mà thiếu
sức truyền cảm vì nghệ thuật không được cao. Cũng thì một ý thơ, mà một bên làm
cho chúng ta thích thú, một bên không. Xem đó cũng đủ thấy rằng hình thức quyết
định nội dung. Nhưng nếu tác giả không thật sự rung cảm thì cũng không thể có
được những câu thơ làm rung cảm lòng người đọc một cách sâu sắc.
Chu
Mạnh Trinh quả đã “thương người tài sắc” với một tấm lòng thành thật và sâu đậm,
nên mới có thể truyền cảm sang chúng ta bằng những vần thơ sinh động như thế.
Bài
thơ “Chơi Thanh Minh” là bài mở đầu của hai tập thơ Vịnh Kiều.
Và
sau khi đi Thanh Minh về cho đến khi Kiều gặp Kim Trọng, tác giả tập thơ khuyết
danh vịnh đến ba bài:
KIM
KIỀU TƯƠNG TƯ
Bóng
trăng chênh chếch giải bên lầu
Ngồi
với trăng mà nhớ những đâu!
Trăm
mối vò tơ lần khắc diễn,
Một
mình nương triện suốt canh thâu.
Ba
sinh âu hẳn còn vương nợ,
Chín
khúc xui nên khó dập sầu.
Mới
biết tương tư là thế ấy,
Thôi
thôi chớ trách kẻ ôm cầu.
KIỀU
MỘNG THẤY ĐẠM TIÊN
Trước
loan tựa gối giấc vừa yên,
Chợt
thấy người đâu bạn thiếu niên.
Tha
thướt phô màu in Phật Tổ,
Thanh
tân dường dấu chốn Đào Nguyên.
Giấc
tan gối điệp bâng khuâng những…
Sầu
vẩn canh gà chất chứa nên.
Còn
nghĩ chưa xong duyên phận ấy,
Bóng
trăng đâu đã xế ngoài hiên.
HOA
VIÊN GẶP KIM TRỌNG
Thơ
thẩn vườn xuân dạo gót chơi
Thướt
tha bóng liễu buổi êm trời.
Bên
đào dường đọ hoa cười gió,
Góc
núi xa nghe khách ướm lời.
Ngơ
ngẩn hương e cùng phấn lệ,
Vội
vàng cải rụng với kim rơi.
Một
rằng duyên hai rằng là nợ,
Mây
nước lòng người dễ chắc thôi.
Văn
chương lưu loát. Tuy không phải Dương Xuân Bạch Tuyết, song không đến nỗi Ba Hạ
Lý Nhân. Nếu không có thơ của họ Chu, thì nơi tường đông hẳn cũng dập dìu ong
bướm. Chỉ vì thơ của họ Chu đẹp quá, nên Đường Minh Hoàng đã rẻ rúng cả ba
nghìn son phấn trong cung.
Thật
vậy, từ lúc Kim Kiều mơ tưởng nhau cho đến lúc gặp gỡ nhau, tác giả tập thơ
khuyết danh phải nói đến 24 câu mà chưa đủ, còn Chu Mạnh Trinh chỉ gói ghém một
cách trọn vẹn trong 8 câu:
Hết
nghĩ gần thôi lại nghĩ xa,
Hiu
hiu án sách ngọn đèn tà…
Gương
loan phảng phất hồn cung quế,
Giấc
bướm mơ màng khách trước sa.
Mười
vận sầu tuôn đôi giọt ngọc,
Trăm
năm duyên bén một cành thoa.
Mái
Tây bỏ lúc chờ trăng dựng,
Rày
đã vườn xuân tỏ mặt hoa.
Cảnh
tình đã đủ, mà bức tranh lòng nửa mở nửa cuốn, như có như không, mơ màng phảng
phất, gây trong tâm hồn người đọc một ấn tượng nhìn người đẹp trong chiêm bao:
Sương
in mặt tuyết pha thân,
Sen
vàng lãng đãng như gần như xa…
Có
thể nói rằng thơ của Chu Mạnh Trinh là những nét chạm trong mây, và thơ trong tập
vịnh Kiều khuyết danh kia là những nét vẽ trên gỗ. Tập thơ này làm cho chúng ta
thấy rõ thêm giá trị tập thơ của họ Chu.
Nhưng
trích dẫn một ít thơ trong tập ra đây chẳng những để làm tăng thêm giá trị của
tập Thanh Tâm Tài Nhân mà còn để phổ biến được phần nào một tập thơ xưa hầu như
không mấy người biết, tuy rằng trong tập cũng có nhiều bài đáng yêu, như những
bài trên kia và sau đây:
KIỀU
VỀ VỚI MÃ GIÁM SINH
Giấc
mộng còn mơ nghĩa cố tri,
Tiếng
gà đâu đã giục ra đi!
Trông
mây nhường vẽ tình lưu lạc,
Nghe
gió như đàn khúc biệt ly.
Ví
biết thân này ra phận ấy,
Thời
đừng ngày trước nặng nguyền chi!
Còn
non còn nước còn trăng gió,
Thời
nợ Châu Trần cũng có khi…
KIỀU
VỀ NHÀ TÚ BÀ
Từ
ngày xa cách chốn gia hương
Xót
phận lưu ly dãi gió sương.
Dồi
má những là dơ dạng phấn,
Chau
mày thêm để thẹn thùng gương.
Trời
ghen chi mấy người tư sắc,
Tên
bắt đem chua sổ đoạn trường!
Nông
nổi nhường này ai kẻ biết,
Một
mình mình nghĩ một mình thương.
Những
bài khác trong tập, văn chương đại khái cũng trôi chảy như thế. Toàn thiên thì
thanh lão, nhưng không có câu nào làm cho người đọc khoái chí, kinh tâm. Người
xưa gọi thơ như thế là “Hữu thiên vô cú”. Tuy vậy trong số thơ Đường luật từ đời
Trần cho đến nay, những bài thơ như trên không phải dễ kiếm cho nhiều được. Vốn
là con nhà nghèo, nên một đồng một trự cũng đều lấy làm quí, huống hồ đây tuy
không phải tiền vàng, nhưng cũng không phải là tiền kẽm, mà là tiền đồng. Vậy
chúng ta cần phải gìn giữ kẻo mất uổng.
Và
để cùng quí bạn mua vui chốc nữa, tôi xin giới thiệu thêm một bài nữa trong tập:
KIỀU
GẶP THÚC SINH NƠI QUAN ÂM CÁC
Trần
ai kia biết bởi vì đâu,
Dẫu
tuổi xuân xanh cũng bạc đầu.
Đọng
giọt huỳnh hoa tan giọt lụy,
Lấp
cung bạc mệnh trổi cung sầu.
Khôn
hay lặn lội đo mồm cá,
Mà
biết vuông tròn uốn lưỡi câu.
Ai
đã có thương người phận bạc
Liệu
mà xin mở cửa cho nhau.
Để
cho có chị có em, xin đưa ra đây bài của họ Chu:
THÚC
SINH LÊN THĂM KIỀU NƠI QUAN ÂM CÁC
Những
căm giàm buộc mặc tay già!
Nửa
bước đường đi mấy dặm xa
Án
bút thẩn thờ người viết kệ,
Rừng
thiền lấm lét khách tìm hoa.
Câu
kinh bối điệp câu thơ họa,
Giọt
nước dương chi giọt lệ pha.
Bỗng
phút lưng trời cơn sét dậy,
Tường
đông sư tử lộ đầu ra.