Vua
MINH MẠNG là một ông vua giàu chữ và cũng giàu con hơn tất cả nhà vua Việt Nam
từ trước đến giờ.
|
Nói
về nhà vua, thi nhân có câu:
Nhất dạ ngũ giao tam kiết tử. [1]
Nghĩa
là:
Một
đêm vui thú năm lần
Mà
ba lần để nợ nần thế gian.
Như
thế làm gì không nhiều con. Nghe đâu nhà vua có đến một trăm mấy chục ông hoàng
bà chúa. Thật là nòi rồng tiên chính cống!
Trong
các ông hoàng bà chúa, có nhiều vị rất hay chữ và giỏi thơ. Nổi tiếng nhất là:
-
Tùng Thiện Vương.
-
Tuy Lý Vương.
-
Tương An Quận Vương.
Vua
Tự Đức có câu:
Văn như Siêu Quát vô Tiền Hán
Thi đáo Tùng Tuy trúc Thịnh Đường.
Nghĩa
là:
Văn
như Siêu Quát lu Tiền Hán,
Thơ
đến Tùng Tuy trúc Thịnh Đường.
TÙNG
TUY là Tùng Thiện Vương và Tuy Lý Vương.
TÙNG
THIỆN VƯƠNG là hoàng tử thứ 10.
TUY
LÝ VƯƠNG là hoàng tử thứ 11.
Cổ
nhân có câu: “Đường thi, Tấn tự, Hán văn chương, nhân gian tuyệt phẩm”. Nghĩa
là “Thơ đời Đường, chữ đời Tấn, văn chương đời Hán, đó là những nghệ phẩm tuyệt
diệu trong thế gian”.
Như
thế nói về Thơ thì thơ Đường hay đến cực điểm vậy.
Vậy
mà bảo rằng:
Thơ
hay hay đến Tùng Tuy,
Tài
đem so sánh còn chi Thịnh Đường.
Thì
không biết Thơ của Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương còn hay đến bậc nào nữa?
Vua
Tự Đức khen thơ Tùng Tuy hay hơn thơ Đường là khen về thơ chữ Hán. Chớ thơ Quốc
âm của hai hoàng tử không nghe truyền được nhiều. Gom góp tất cả không quá 10
bài. Và những bài còn lưu thế, xem ra cũng không lấy gì làm hay. Về thơ Đường
luật, thì Tùng Thiện Vương có một bài đề tập “Nữ Phạm Diễn Nghĩa Từ” bằng Quốc
âm của Tuy Lý Vương soạn và kể những sự tích các người đàn bà xưa giữ trọn lòng
trinh tiết. Bài đó nhan đề là:
PHỤNG
SẮC KÍNH ĐỀ NGUYỄN HẬU
Họ
Lưu bầy gái đã anh hùng
Dịch
lại khen ai cũng có công.
Trải
suốt mười thiên dâng điện Bắc,
Chép
dần ba phẩm nối tường Đông.
Vẽ
bầu theo dạng tài chưa dễ,
Lấy
sách làm gương ý chẳng cùng.
Liền
chuyện nhớ chừng ngươi Tử Chính,
Một
biên liệt nữ bấy nhiêu trung.
Còn
Tuy Lý Vương, thì thấy được ba bài, hai bài bát cú và một bài tứ tuyệt. Bài “Đề
Nữ Phạm Diễn Nghĩa từ” của Tùng Thiện Vương, rất ít người biết. Còn ba bài của
Tuy Lý Vương trong làng thơ không mấy người không đọc qua, có lắm người thuộc
lau lảu. Đó là những bài:
THƠ
HỌA VẦN KHOAI
Cũng
phải xơi ngơi cũng phải chơi
Làm
người nào phải bụt lo đời.
Ngày
dài dễ đặng ba muôn sáu,
Tháng
chẵn lần qua một chục hai.
Việc
phủ vua quan giờ có phép,
Tiệc
thơ hầu hạ dám nhường ai.
Mua
vui ngàn lượng xin đừng tiếc,
Đã
thấy co ro cất củ khoai.
ĐỀ
NHÀ MÁT
Cửa
cỏ rèm lau mặt tả tơi
Sông
Hương nội Lách ấy là nơi.
Dẫu
cơn mưa gió ta cùng thích,
E
nỗi trăng hoa khách khó chơi.
Ghế
đá giường tre không chút bợn,
Quần
là áo lượt chẳng màng thơi.
Dù
ai tưởng tới qua mà nhởi,
Thiếu
thốn tôi đâu dám rước mời.
Những
bài thơ trên, của Tuy cũng như của Tùng, về thi pháp thì thật già dặn. Rõ là
tay thợ tay thầy. Nhưng thi chất không mấy dồi dào, nên đọc xong không còn thấy
dư vị.
Dư
vị là yếu tố khiến người đọc ưa đọc đi đọc lại bài thơ, khiến bài thơ được lưu
truyền và bất tử.
Hai
bài của Tuy Lý Vương được nhiều người thuộc, nhiều người đọc, là nhờ có giọng đặc
biệt, giọng hoàng phái mà tục gọi là “giọng các mệ”, nhất là nhờ chỗ dụng công
khéo léo nơi câu kết.
Trong
bài “Thơ họa vần KHOAI”, câu kết mượn chữ và ý trong câu tục ngữ “Chưa lo ngày
mai, đã lo cất củ khoai để mốt”. Vận họa đã thoát, mà ý lại vừa tiếp câu chuyển
vừa vói khởi thừa, một cách sít sao. Thật là khéo mà cũng thật là tài vậy.
Còn
về bài “Đề nhà mát”, muốn thấy rõ cái hay trong câu kết, tưởng nên biết rõ rằng
nhà mát của Vương vốn bằng tranh, có mái có chái nhưng không có khu đĩ. Vì
không có khu đĩ, nên gọi là “thiếu thốn” và vì “thiếu thốn” nên không dám rước
mời khách làng chơi, dù có “tưởng tới qua mà nhởi”. Thật là tế nhị mà cũng thật
là mỉa mai.
Nhưng
đọc hai câu ấy chúng ta không đến nỗi ớn lạnh như khi Lao Sùng Quang, một vị Tiến
sỹ Trung Quốc sang sứ Việt Nam, đọc thơ “Hà Thượng của Tùng Thiện Vương, đến
câu:
Thân tự bạch âu tuy xứ túc,
Giao như hoàng diệp nhập thu sơ.
Mà
cụ Ưng Trình dịch là:
Người
được an nhàn,
Âu
trắng ung dung theo ngọn nước.
Bạn
dầu sơ khoáng,
Lá
vàng tán lạc với hơi thu.
Đọc
hai câu ấy, Lao sứ giả than:
Độc đáo “bạch âu hoàng diệp” cú
Mãn hoài tiêu sắc đái thu hàn.
Nghĩa
là:
Đọc
đến câu “bạch âu hoàng diệp”
Lòng
tri âm hiu hắt trời thu.
Khen
như thế thật là “hết lời”. Phải chi thơ Quốc âm của Tùng Tuy cũng hay như thơ
Hán văn, để mình cũng hết lời khen cho sướng miệng.
Còn
bài Tứ Tuyệt là một bài thơ tức cảnh. Rằng:
Mây
xây núi túi chim làm tổ,
Khách
cách đường trường nốt cột lau.
Lỏng
khỏng đào cao nường phậu xấu,
Lơ
thơ liễu yếu chị đàu đau.
Nội
dung không có gì lạ, nhưng hình thức có chỗ mới. Thể tuy vẫn là thể thất ngôn
luật thi, mà cách dùng song thanh điệp vận gây thành một âm điệu mới mẻ, trước
chưa có người chủ trương. Lối thơ này, khách làng thơ gọi là “Song thanh điệp vận”.
TUY
LÝ VƯƠNG là người khởi xướng ra lối thơ này vậy.
Có
mấy câu thơ tuyệt tác sau đây cũng tương truyền là của Tùng Tuy, nhưng không biết
có đúng chăng, và cũng không ai biết câu nào của Tùng câu nào của Tuy:
-
Ngọn nước chảy xuôi trời lật ngửa,
Mảnh
gương úp sấp đất nằm nghiêng.
-
Sông e biển cạn bù thêm nước,
Non
sợ trời nghiêng đỡ lấy mây.
Hai
câu trên đẹp nhưng thuộc hàng tiểu xảo. Hai câu dưới thật hùng hồn, có khẩu khí
một bậc đống lương trung hậu.
Một
thi nhân danh tiếng đời Thanh là Bồ Tương Xuân có câu:
Cựu tháp vị khuynh lưu thủy bảo
Cô phong dục đảo loạn văn phò.
Nghĩa
là:
Tháp
cũ chưa nghiêng dòng nước giữ
Non
côi muốn ngã đám mây phò.
Rất
được truyền tụng, song so với câu “Sông e… Non sợ…” thì câu này hùng hậu hơn.
Tôi
còn nghe truyền một bài nữa của Tùng Thiện Vương:
TRE
TRỐC GỐC
Nghĩ
mình đã ẩn chốn cao sâu
Đến
lúc trời xô cũng chỏng râu
Trảy
mắt những lăm đương rổ cá
Vẹt
gai khôn ngóng uốn cần câu
Quản
bao chú lính qua cào mặt
Thương
hại ông quan phải cúi đầu
Những
tưởng ngã ra đà tận số
Ai
hay dựng lại sống càng lâu.
Đây
là thơ ký thác.
Nguyên
dưới triều vua Tự Đức, Vương kiêm nhiếp Phủ Tôn Nhơn. Năm Bính Dần (1866) rể của
Vương là Đoàn Trưng cùng em là Đoàn Trực và các đồng chí âm mưu đảo chính. Đại
sự bất thành, Đoàn Trưng cùng đồng đảng bị tử tội. Vương bị liên lụy, nhưng vua
Tự Đức chỉ cách chức và phạt không cho ăn bỗng trong một năm. Được ít lâu nhà
vua lại cho phục chức. Vương cố thoái thác nhưng không được.
Bài
cây tre trốc gốc làm lúc trở lại Phủ Tôn Nhơn.
Ngoài
những vần thơ thất ngôn, Tùng Tuy còn để lại một bài song thất lục bát, liên
ngâm cùng Tương An Quận Vương, nhan đề là “Hòa Lạc ca”.
“Hòa
Lạc” là tên một chiếc ngự thuyền của vua Minh Mạng. Năm Canh Dần (1830) nhà vua
cùng các Hoàng tử ngự chiếc Hòa Lạc đi đến cửa Thuận An duyệt binh. Ngự thuyền
gặp giông sắp chìm, nhưng nhờ tiếp cứu cập thời nên thoát nạn. Lúc trở về được
bình an, Tùng Tuy Tương cùng nhau liên ngâm để “giúp tiếng chèo xuôi gió về
kinh”. Bài này dài đến 64 câu kể lại việc “thuyền rồng đi tuần hạnh Thuận An”,
tả cảnh có, tả tình có, ký sự có. Văn chương trang nhã đài các. Xin trích đoạn
đầu làm vui:
Trời
Nam vừa thuở thái bình,
Non
hùm bặt dấu, biển kình biệt tăm.
Ngày
hôm rằm, tiết hà đang thạnh,
Vâng
chiếu rồng tuần hạnh Thuận An.
Pháo
đài bảy tiếng sấm vang,
Thuyền
chèo tách nước, cờ phang cuốn trời.
Dậy
giữa vời trạo cao một khúc,
Trấn
hải thành bỗng chốc đã lên.
Theo
chầu sánh hiệp bạn tiên,
Đầy
thuyền Hòa Lạc chỉ miền thương ba…
Các
đoạn sau văn chương cũng trác luyện như thế.
Bài
ca do ba người liên ngâm. Tùng Thiện Vương khởi hai câu, rồi đến Tuy Lý Vương,
tiếp theo Tương An Quận Vương… Thế mà giọng văn thuần nhất, khí văn liên tục,
như do một người soạn ra. Nghe truyền rằng lúc bấy giờ ba hoàng tử tuổi mới chừng
10, 11, 12!
Không
thể nghi ngờ. Vì:
Tùng
Thiện Vương sanh năm Kỷ Mão (1819)
Tuy
Lý Vương sanh năm Canh Thìn (1820)
Tương
An cũng sanh năm Canh Thìn (1820).
Còn
năm chiếc “Hòa Lạc” bị bão là năm Canh Dần (1830). Như vậy thì lời truyền quả
đúng sự thật vậy. Điều này chứng tỏ rằng ba hoàng tử có sở trường về quốc văn từ
lúc nhỏ. Nhưng khi lớn lên, Tùng và Tuy thiên hẳn về Hán văn. Riêng TƯƠNG AN QUẬN
VƯƠNG luôn nặng lòng cùng tiếng mẹ đẻ.
***
TƯƠNG
AN QUẬN VƯƠNG là Hoàng tử thứ 12 của vua Minh Mạng, cùng với Tùng Thiện Vương
và Tuy Lý Vương là anh em khác mẹ (Tùng, Tuy cũng là anh em khác mẹ).
Về
bên Hán văn, học lực và thi tài của Tương An đối với Tùng, Tuy, hơn kém như thế
nào không được rõ. Nhưng về bên Quốc âm thì Tương An hơn hẳn hai anh.
Thơ
Quốc âm của Tương còn truyền tụng được khác nhiều, và hầu hết đều có câu tuyệt
thú. Hay nhất là những bài sáng tác thời Tự Đức, sau khi hoàng tử Hồng Bảo bị bức
tử.
Hoàng
tử HỒNG BẢO là con trưởng vua Thiệu Trị. Nhà vua băng hà, đáng lẽ Hồng Bảo được
kế vị. Nhưng phụng hành di chiếu, đình thần lập hoàng tử HỒNG NHẬM, em Hồng Bảo
lên ngôi, lấy niên hiệu Tự Đức. Bất mãn về sự phế lập bất công, Hồng Bảo cùng một
số người tâm phúc âm mưu giành lại ngai vàng. Việc lớn không thành, Hồng Bảo bị
bắt bỏ ngục.
Tương
An Quận Vương đối với Hồng Bảo và Hồng Nhậm, đã là vai hoàng thúc, lại là tay
giáo đạo, nên rất được kính nể. Khi Hồng Bảo bị nạn, Tương An năn nỉ cùng vua Tự
Đức niệm tình. Vua Tự Đức nhận lời. Hồng Bảo được tha tội chết, chỉ bị hạ ngục.
Nhưng sau đó Hồng Bảo tự ải. Người đương thời nghi rằng không phải hoàng tử tự
sát mà bị vua Tự Đức bức tử để dứt hậu họa.
Tương
An giận vua không giữ lời hứa, có làm bài thơ “Trách Tình Nhân sai hẹn” rằng:
Như
nguyện ai ngờ nguyện chẳng như,
Lần
lừa canh một đến canh tư!
Chùa
thanh cảnh vắng chim kêu rốn,
Sương
lọt trăng lồng gió thổi nư
Đoạn
thẳm khôn ngăn dài dặc dặc,
Mối
tình sao khéo buộc khư khư!
Nghĩ
buồn mượn rượu làm khuây khỏa,
Ai
bảo say sưa rứa cũng ừ.
Cái
chết của Hồng Bảo làm cho Quận Vương vừa đau thương vừa uất hận.
Trước
kia, văn chương của Quận Vương cũng có giọng phong lưu đài các như Tùng, Tuy.
Ví dụ bài đề tập “Nữ Phạm diễn nghĩa” của Tuy:
Lần
hồi chữ lạ hỏi Dương Hùng
Đuôi
ký theo đòi dám tiếc công.
Sóng
dợn tờ quyên vơi biển Bắc,
Bút
dằn ngòi thỏ rạch non Đông.
Khương
Nhâm đức trước ngàn thu rạng,
Nghiêu
Thuấn nhân nay tám cõi cùng.
Đâu
đó chăng là nhuần nhã hóa,
Hóa
nhà con thảo, nước tôi trung.
Bài
này họa vận bài của Tùng Thiện V. từ khí có phần hơn bài xướng. Nhưng đọc vẫn
không hứng thú bằng bài VỊNH TRĂNG NON sau đây:
Khen
ai cắc cớ bấm trời tây,
Tỉnh
giấc Hằng Nga mới kẻ mày.
Một
mảnh lênh đênh chìm đáy nước,
Nửa
vành lững thững giợn chân mây.
Cá
ngờ câu thả tơi bời lội,
Chim
ngỡ cung trương dáo dác bay.
Khuyên
chúng chớ chê rằng chếch mác,
Một
mai tròn vạnh bốn phương hay.
Tình
vui, lời sáng. Người đọc thấy rõ lòng thỏa mãn của người làm thơ. Nhưng sau cái
án Hồng Bảo, giọng thơ của Tương An trở nên lâm ly và ý thơ chứa đầy nỗi bi phẫn.
Để gói ghém nỗi lòng, ngõ hầu tránh nạn búa rìu của kẻ nắm quyền sanh sát,
Tương An đã tạo nên những câu thơ khi thì bóng bẩy xa xôi, khi thì chìm lắng cô
đọng. Như:
QUAN
CÔNG CƯ TÀO
Tôi
chúa đôi phương cảnh quạnh hiu,
Cũng
vì một chút nghĩa liu điu.
Ơn
Tào dẫu chất nghìn cân nặng,
Nợ
Hán còn mang một gánh trìu.
Đuốc
ngọc canh khuya trời một góc,
Vườn
đào thề cũ ruột trăm chìu.
Ví
ai muốn thấu nguồn cơn ấy
Xin
hỏi chàng Trương nỗi khúc khiu.
Bài
này hay nhất là cặp luận: Lời óng chuốt, tình sâu đậm, sức truyền cảm mạnh mẽ,
nhưng dụng ý kín nhẹm, hiểm hóc, cay độc thì là cặp trạng và chuyển kết.
Ơn
Tào dẫu chất nghìn cân nặng,
Nợ
Hán còn mang một gánh trìu.
Lời
nghe nhẹ nhàng, đọc qua khó thấy được hậu ý. Nhưng dừng nghĩa lại, và tự hỏi:
-
Tào là ai? Hán là ai?
Có
phải:
-
Tào là kẻ đoạt quyền? Hán là kẻ thất thế? Mà kẻ đoạt quyền lúc bấy giờ có ai
khác hơn vua Tự Đức, và kẻ thất thế có ai khác hơn là hoàng tử Hồng Bảo, kẻ
đáng được làm vua mà bị truất ngôi!
Câu
ấy cho người đọc thấy rõ Tương An đem lòng thương tiếc Hồng Bảo và tỏ ý oán
trách Tự Đức, coi Tự Đức là kẻ soán nghịch như Tào A Man.
Còn
câu:
Ví
ai muốn thấu nguồn cơn ấy,
Xin
hỏi chàng Trương nỗi khúc khiu.
Có
người cạn cợt chê rằng “lầm lấy rồi”. Thật ra thì là một câu rất hiểm độc.
Trước
hết thử hỏi:
-
Chàng Trương đây là ai?
Có
người không nghĩ kỹ đáp rằng là Trương Phi. Nói thế là sai, vì lúc Quan Công ở
với Tào Tháo, Trương Phi đâu có đó mà rõ được sự tình? Chàng Trương đây là
Trương Liêu vậy. Và chính Trương Liêu đã bày mưu cho Tào Tháo biệt đãi Quan
Công, hầu mong lấy tình để cầm chân người trọng nghĩa, Trương Liêu đã hiểu thấu
đáo cảnh ngộ cùng tâm sự của họ Quan.
Đó
là “chàng Trương” về nghĩa đen. Còn về nghĩa bóng thì là Trương Đăng Quế.
Trương
Đăng Quế được phong tước Quận Công [2],
đứng đầu triều, có thế lực, được xuất nhập bất cấm nơi cung điện nhà vua. Có dư
luận rằng Hồng Nhậm cũng do họ Trương mưu sử. Nhưng mọi việc đều ở trong vòng
bí mật.
Ví
ai muốn biết nguồn cơn ấy
Xin
hỏi chàng Trương nỗi khúc khiu.
Giá
một nơi đánh một ngả, đương sự dù biết thấu cũng đành ngậm đắng nuốt cay.
Bài
này chắc chắn Tương An làm sau khi Tự Đức lên ngôi và trước khi Hồng Bảo bị nạn.
Cho nên giọng văn chưa phải là tiếng đau thương của con người tuyệt vọng. Trong
ánh “đuốc ngọc canh khuya” còn hé đôi tia hy vọng, hy vọng được gặp lại Lưu
Hoàng Thúc, hy vọng thực hiện được lời thề “đồng sanh đồng tử” chốn đào viên.
“Người còn thời của vẫn còn”. Tương An chỉ tuyệt vọng sau khi Hồng Bảo chết.
Lúc bấy giờ văn chương của Tương mới thật ai oán não nùng. Như:
THIÊN
MỤ HOÀI CẢM
Thiên
Mụ rày xem cỏ lướt mây,
Xe
loan qua lại dấu còn đây.
Ngọc
Hoàng điện trước ngằn rêu lấp,
Di
Lặc chùa sau tiếng dế vây.
Thảm
lấp Phủ Câu sông một dải,
Sầu
giăng Long Thọ núi liền dây.
Cảnh
trời sương khói thêm buồn bã,
Còn
thiếu quyên kêu xó gốc cây!
Thật
là ảm đạm! Tất cả đều nhuộm sắc tang thương! Chỉ còn thiếu có tiếng cuốc kêu nữa
thì hoàn toàn là cảnh mất nước! Nghĩa là chỉ còn có người đứng ra tuyên bố rằng
“nước đã mất rồi” để minh chứng thực tế hiển nhiên nữa thôi.
Vì
sao Tương An lại thốt ra lời nói ấy?
Bởi
vì – như trên kia đã nói – Người trong hoàng tộc phần đông ngờ rằng vua Tự Đức
không phải dòng Nguyễn Phúc. Mà dòng khác lên nối ngôi nhà Nguyễn tức là nhà
Nguyễn đã mất rồi, và theo quan niệm người xưa, vua là nước! Ngôi vua đã về tay
kẻ khác tức là nước cũng mất vào tay người khác, chớ còn đâu!
Trong
bài này, lòng sầu thảm tuy lai láng nhưng vẫn không che kín được niềm uất hận cố
đè nén, cố giấu giếm. Lòng phẫn uất tan hòa theo lòng thương thảm, và phát ra
tiếng khóc não nhân, thì như bài VÔ ĐỀ sau đây là một:
Bên
cảnh bên tình khéo vấn vương
Sầu
thu đưa hạ chạnh trăm đường!
Tiếng
ve dài dặc nghe thêm thảm,
Mặt
nguyệt tròn hin ngó dễ thương!
Vàng
thếp giếng ngô sa lá gió,
Bạc
xuy giậu cúc nảy chồi sương.
Dầu
chong trắng dĩa chưa yên giấc,
Lăm
phá thành sầu đã hết phương!
Thật
là não ruột! Người xưa bảo “những khúc hát đau thương nhất là những khúc hát đẹp
nhất”. Bài Vô Đề của Tương An Quận Vương là một bằng chứng hùng hồn. Và đẹp nhất
là cặp luận:
Vàng
thếp giếng ngô sa lá gió,
Bạc
xuy giậu cúc nảy chồi sương.
Văn
chương vừa diễm lệ vừa cổ kính, tình ý vừa thâm viễn vừa tế nhị. Đọc qua thì dường
như một câu thơ tả cảnh mùa thu, một cảnh huy hoàng lộng lẫy, vàng thếp bạc
xuy, cúc đâm chồi, ngô trải lá… Nhưng gẫm lại thì là một câu thơ tả tình, một mối
tình đau xót buồn thương ngấm ngầm ở dưới lớp vàng son rực rỡ!
Cảnh
huy hoàng của giếng, thử hỏi nhờ đâu mà có? Có phải nhờ cảnh tàn tạ của ngô? Và
nhìn ánh rực rỡ của hàng giậu phủ sương, có ai tưởng tới nỗi lạnh lùng của cúc?
Câu
“vàng thếp…” ám chỉ vua Tự Đức.
Câu
“bạc xuy…” ngụ ý than cảnh ngộ của Quận Vương.
Hai
câu thơ cảnh mà tình, tình mà cảnh. Nếu bảo là cảnh thì cảnh ấy đã biến thành
tình. Nếu bảo là tình thì tình kia đã hiện thành cảnh. Hai câu nầy cũng như hai
câu:
Thảm
lấp Phủ câu sông một dải,
Sầu
giăng Long Thọ núi liền dây.
trong bài “Thiên Mụ…”, có thể gọi
là “tâm cảnh nhất như”. Đó là những câu thơ thượng thừa vậy.
Phải
mạnh dạn nói rằng:
-
Thơ Đường luật của Tương An Quận Vương như những câu trên thật ít người sánh kịp.
Thơ
Lục Bát và Song Thất Lục Bát của Quận Vương cũng rất điêu luyện. Và những bài
được truyền tụng cũng là những bài thương đau về cảnh cốt nhục tương tàn vì
ngôi báu. Như bài:
HOÀI
CỔ NGÂM
Sắc
trời Tống Ngọc buồn thu,
Mượn
tình gió Nữ mưa Ngâu sụt sùi.
Cảnh
tự nhiên ai xui nên thế?
Nguyệt
dòm song tiếng dế gióng canh.
Sầu
kia ai đắp nên thành?
Giao
chan đũa ngọc tằm đoanh khúc vàng.
Giấc
hoàng lương mơ màng cũng lạ!
Cõi
hồng trần hả hả cười khan!
Ghê
cho con Tạo đa đoan,
Quây
người múa rối, rũ màn chiêm bao.
Thấy
đâu nào sớm còn tối mất,
Cánh
phù du rật rật những bay.
Nghìn
xưa tình nặng nghĩa dày,
Trời
già đất rục non thay biển mòn.
Thấy
đâu còn thể ngồi hầu kể,
Khéo
léo đâu ai để phù danh?
Cơ
chi có đá ba sinh,
Dập
sầu lấp thảm cho đành dạ nhau.
Mở
quyển vàng trước sau gắm ghé,
Chạnh
ngàn xưa nhớ kẻ tri âm:
Xiết
bao khóc tủi buồn thầm,
Tiếng
tiêu Ngũ Tử, khúc cầm Ung Môn.
vân
vân…
Khúc
ngâm dài 100 câu kể lại những sự tích của những người có tài có đức, nhưng thân
phận hẩm hiu, phải chịu nhiều nỗi đau khổ, những trung thần, liệt nữ, tài tử
giai nhân… bị “tình đời chưa trưa đã nắng” làm lụy thân danh…
Khúc
Hoài cổ, Quận Vương soạn sau khi Hồng Bảo chết. Giọng văn thật lâm ly. Rõ là tiếng
than não nuột của con người ruột đứt từng cơn!
Thể
văn tuy dùng thể song thất lục bát, nhưng có đôi đoạn xuống hai hoặc ba cặp lục
bát liên tiếp. Như:
Hoa
chào thu, khuynh thành nhan sắc,
Người
vì đâu thắc mắc sầu đoanh!
Phân
tay bốn giọt lệ tình,
Lầu
cao trăm thước xem mình như không.
Non
Hầu tiếng hạc mênh mông,
Cửa
qua bóng ngựa người trong hoa đèn…
Bố
cục không được chỉnh đốc. Tác giả nhớ đến người nào nói người nấy. Đương nói đến
người trung nghĩa, tiếp đến người tình chung, rồi lại sang đến người hy sinh vì
rồi lại trở lui nói chuyện những gái hiếu vợ hiền… Tình cảnh không tương quan,
ý tứ không liên lạc. Tuy vậy lời thơ cuồn cuộn như những đợt sóng đuổi theo
nhau, tiếp tiếp liền liền không đứt, và có sức hấp dẫn lạ lùng… khiến người đọc
mãi theo dòng thơ mà không để ý đến sự lộn xộn trong cách xếp đặt. Nhiều câu
tuyệt hay, nhiều câu hay một cách độc đáo. Như:
Mã
Ngôi muôn dặm thẳng giong,
Thuyền
quyên hồn tắt, anh hùng lệ sa!
Bốn
giây ứa máu tỳ bà,
Ngỡ
ngàng trăng Hán, phôi pha gió Hồ.
Trong
Đoạn Trường Tân Thanh có câu:
Một
cung gió tủi mưa sầu,
Bốn
dây giỏ máu năm đầu ngón tay.
Ai
cũng khen là hay. Nhưng đọc đến câu:
Bốn
giây ứa máu tỳ bà,
Ngỡ
ngàng trăng Hán, phôi pha gió Hồ.
Thì
nhận thấy câu của Tiên Điền lùi lại đến năm bước. Câu nầy nếu là của một nhà
thơ Tân học thì nhất định bị ngờ rằng đã mượn ý của một nhà thơ Pháp (quên
tên), tác giả câu:
“L’archet
mord jusqu’au sang du violon.”
Nghĩa
là “Dây cung cắn thấu vào máu cây vĩ cầm”.
Một
bên thì ăn vào, một bên thì ứa ra. Nhưng có ứa ra vì đã ăn vào, và có ăn vào lẽ
tất nhiên rồi sẽ ứa ra… Ngó thì khác song thật ra chẳng khác. Đối với nhau
không khác, nhưng đối với câu của Tiên Điền thì khác hẳn: Câu của Tiên Điền gợi
hình ảnh thường: đầu ngón tay giỏ máu. Câu của Tương An, cũng như câu của nhà
thơ Pháp, gợi hình ảnh phi thường: Dây đàn ứa máu! Một bên là người. Một bên là
quỉ. Thơ của Tiên Điền chỉ gợi cảnh đau thương
Câu của Tương An vừa gợi cảnh đau thương vừa khiến cho người đọc phải
rùng rợn! Hay đến thế thật là “sơn cùng thủy tận”!
Trong
bài có nhiều câu thoát ý như những câu thơ cổ. Và cũng như Nguyễn Du trong Đoạn
Trường Tân Thanh, Tương An Quận Vương đã biến chế thành những giọt mật ong ngon
thơm hơn cả mật hoa nguyên chất. Như:
Chốn
sa trường đống xương trắng nhẽ,
Người
diễn khơi hồn ghé khuê môn.
Thoát
ý câu thơ Đường:
Khả lân Vô Định hà biên cốt,
Do thị xuân khuê mộng lý nhân.
Nghĩa
là “Khá thương đống xương ở bờ sông Vô Định! Đó đều là những người trong mộng của
khách phòng xuân”.
Hoặc
như:
Biết
đâu gan ruột gởi mình,
Mua
tơ thêu lấy tượng Bình Nguyên Quân.
Thoát
ý câu:
Bất tri can đảm hướng thùy thị,
Linh nhân khước ức Bình Nguyên Quân.
Nghĩa
là “chẳng biết đem gan mật gởi cho ai, khiến người lại nhớ đến Bình Nguyên
Quân”. Bình Nguyên Quân là tướng nước Triệu đời Chiến Quốc, đãi khách rất hậu,
trong nhà lúc nào cũng có trên ba nghìn khách khứa đủ hạng người.
Những
câu thơ Việt có phần bóng bẩy, tha thiết hơn những câu thơ chữ Hán. Thật là tài
tình!
Bài
TRĂM THƯƠNG sau đây cũng là một áng văn chương có giá trị.
Bài
này làm ra cũng để trút bớt nỗi u hoài. Tác giả dùng thể lục bát, thỉnh thoảng
chen vào đôi câu song thất. Và tuy để là “Trăm thương” nhưng bài dài chỉ có 36
câu [3],
nghĩa là dù khéo gói ghém đến đâu cũng không đủ “trăm thương” vậy. Xin trích đôi
đoạn làm duyên:
Lao
xao như buổi chợ đông,
Kẻ
qua người lại, đi không về rồi!
Thương
ôi! Chi xiết… Thương ôi!
Trăng
tròn cũng khuyết bể vơi khôn đầy!
Thương
ôi! Như vượn lìa cây,
Như
chim vỡ tổ, như mây xa ngàn.
Thương
ôi! Chiếc nhạn lìa đàn,
Như
uyên chích cánh, như loan giao đầu.
Thương
ôi! Bóng ngã ngàn dâu,
Ngựa
qua cửa hé, sao sầu ban mai.
Thương
ôi! Xuân bất tái lai,
Kẻ
tài người sắc còn ai đó chừ?
Thương
ôi! Nay khóc người xưa,
Người
xưa biết có bây giờ mà thương!
…………………………………
Gẫm
thân chừ ta chưa thương hết,
Hết
chi thương đi một thương ai!
Thương
ai thương hủy thương hoài,
Thương
thầm thương kín thương dài thương dông!
Thương
sao thương khéo lông bông,
Thương
chi cảnh có người không, thương gì?!
Thương
là thương sinh ly tử biệt,
Khiến
người dưng thảm thiết lọ ta.
Thương
thay con tạo khéo ngoa,
Thấy
người nằm đó biết ta đời nào!
Thương
thay đổi vật dời sao,
Biển
sâu cũng cạn non cao cũng bằng…
Văn
chương “Trăm Thương” đối với “Hoài Cổ ngâm” tuy không chải chuốt bằng, song vẫn
có sức rung cảm mạnh. Vẫn là tiếng kêu thương của tấm lòng đau xót, tấm lòng cần
phải “kêu lên một tiếng cho dài kẻo căm”.
Mượn
thi văn trút bớt nỗi đau buồn, nhưng nỗi đau buồn vẫn không vợi bớt! Tương An
Quận Vương bèn đóng cửa tạ khách, một mình vò võ với “mối tình buộc chặt” và
“đoạn thảm khôn ngăn”. Không bao lâu nhuốm bệnh nặng rồi mất! Mất năm Tự Đức thứ
7 (1854) hưởng dương được 35 tuổi, tuổi đương nẩy nở tài năng!
Bình
sinh Quận Vương sáng tác nhiều. Thơ chữ Hán có, thơ Quốc âm có. Thơ chữ Hán được
chép lại thành tập, nhan đề là “Khiêm Trai Thi Tập”. Còn thơ Quốc âm, vì không
chép để, nên chỉ còn truyền chừng mươi bài. Nhưng chỉ xem những bài thượng dẫn,
chúng ta cũng đủ thấy rõ thi tài của Quận Vương. Không kể đến lượng, chỉ nói về
phẩm, thì bấy nhiêu bài còn sót lại đó cũng đủ đưa tác giả lên hàng ghế nhất
trên Tao đàn Việt Nam. Riêng nói về thơ Đường luật, từ đời Trần đến đời Tự Đức,
sản phẩm tuy nhiều, song không có mấy nhà vượt qua Tương An, nhất là về mặt âm
điệu. Hiện nay tuy chưa được nhiều người tán thưởng, vì chưa được phổ biến rộng
rãi, nhưng rồi đây ngọc Biện Hòa ra khỏi đá thì giá liên thành há mất đi đâu mà
lo.
[1] Có người đọc: Nhất dạ
ngũ dâm tam hữu dựng.
[2] Triều Nguyễn chỉ
Trương Đăng Quế được ba nhất: - Tước Quận Công. - Diệu hàm cầu chánh. - Cung
hàm Thái Tử Thái Sư. Còn những người khác như Nguyễn Thân, Hoàng Cao Khải,
Nguyễn Hiển Bắc… đều chỉ hai là: Quận Công, cầu chánh còn cung hàm đều chỉ Thái
Tử Thái Phó.
[3] Tôi ngờ rằng bài
nguyên tác dài đến trăm câu hoặc hơn nữa song người sau chỉ còn nhớ bấy nhiêu.