Thời
Thực Dân Phong Kiến, ngôn luận không được tự do, nghề in không được thịnh hành,
sách báo ra đời rất khó. Muốn phổ biến một tin gì, tuyên truyền một điều gì, cổ
động một việc gì…, các sỹ phu thường dùng lối vận văn. Vì vận văn có vần có điệu,
lại ngắn gọn, dễ đọc dễ nhớ, dễ truyền miệng cho nhau. Và khẩu thuyết vô bằng,
bọn cường quyền có biết cũng chịu.
|
Những
bài văn bài thơ “tuyên truyền” đó, trải nhiều dâu bể, mà hiện nay vẫn còn nhiều
người thuộc làu làu, như bài hịch của Văn Thân thời Pháp mới đặt nền đô hộ lên
đất nước Việt Nam, nghĩa là đã trên tám chín mươi năm rồi.
Trong
bài hịch có nhiều câu thật hay, như:
Lỗ
Trọng Liên nghĩa bất đế Tần, phận nho giả mà lòng lo thổ võ;
Văn
thừa tướng trung phò chúa Tống, bước lưu ly mà vai gánh cương thường.
…………………………
Trong
Tây Cống trông tin điếu phạt, mười sáu năm bức rức, ôm tấm lòng Tô Võ chăn dê;
Ngoài
Bắc kỳ mấy lúc nhiễu nhương, ba mươi tỉnh bồi hồi, toan những dạ Dương Hương
đánh cọp.
vân
vân…
Nhưng
lối văn biền ngẫu này không có tánh cách bình dân, chỉ để cổ động trong hàng
trí thức. Phổ biến trong dân chúng, là lối lục bát, song thất lục bát, vè, thơ
Đường luật.
Như
những bức thư máu của cụ Phan Sào Nam ở hải ngoại gởi về, như bài “Đề tỉnh quốc
dân” của cụ Tăng Bạt Hổ ở Nhật Bản, v.v… Những áng văn này đã gây một ảnh hưởng
lớn trong nước. Thật chẳng khác những tiếng chuông khua, tiếng trống gióng,
vang dội lúc canh khuya, khiến quốc dân đương bị bọn Thực Dân Phong Kiến ru ngủ
say mê, vùng tỉnh dậy…
Đây
thử trích đôi đoạn trong bài “Đề tỉnh quốc dân” của cụ Tằng Bạt Hổ:
Á
Tế Á năm châu là bậc nhất,
Người
đã nhiều, đất đai lại rộng hơn.
Cuộc
đời mở hội doanh hoàn,
Anh
hùng bốn bể giang san một nhà.
Gẫm
từ thuở Âu Ba tìm đến,
Việc
chiến tranh qua Nhật đến Triều Tiên
Xiêm
La Diến Điện gần liên,
An
Nam, Chân Lạp thẳng miền Ai Lao.
Thịt
một tấm trăm dao cắt xé,
Chiếc
Kim âu chẳng mẻ cũng không lành1
Tôi
con Pháp, tớ thầy Anh,
Nín
hơi Đại Đức, nép mình Cường Nga !
Gương
Ấn Độ có xa chi đó,
Chẳng
máu đào cũng họ da vàng.
Mênh
mông một giải Đông Dương,
Nước
non quanh quất trông càng thêm đau.
Đó
là khúc đầu nói đại lược về cảnh sống chung hòa bình của dân tộc cõi Á Đông trước
khi người  La Ba, tức người Âu Châu đến, và cảnh chiến tranh do người Âu gieo
vào Đông Á.
Đoạn
thứ hai, nói đến nước Nhật đứng dậy đánh Nga và thắng một cách vẻ vang. Trong
đoạn này có nhiều câu rất hay. Như:
Trận
thứ nhất Cao Ly lừng tiếng,
Khắp
hoàn cầu muôn miệng đều khen.
Sa
trường xung đột mấy phen,
Ngọn
cờ Áp Lục tiếng kèn Liêu Đông.
Cửa
Lữ Thuận trập trùng sóng bạc,
Thành
Phụng Tiên ngơ ngác khói xanh.
Hải
quân một trận tan tành,
Thái
Hòa cắt nẻo, Đông Kinh rẽ đường.
vân
vân…
Sau
khi ca tụng chí quật cường và tinh thần chiến đấu của người Nhật Bản, tác giả
ngoảnh lại cảnh đất nước Việt Nam:
Càng
nghĩ lại thấm lâu càng tủi,
Nước
Nam nhà gặp buổi truân chuyên.
Trăm
quan quen thói ngu hèn,
Vua
là tượng gỗ, dân là thân trâu…
Đó
là người nước… Vì người nước như thế nên việc nước đều ở trong tay Thực Dân
Pháp. Chúng muốn làm gì thì làm. Từ vua quan chí dân đều là đầy tớ của chúng,
“Kẻ chức Bồi, người chức cu ly”. Chúng lại đánh nhiều thứ thuế lạ lùng:
Nhiều
hạng thuế kể sao cho xiết,
Thuế
“xi” kia mới thiệt lạ lùng !
Thuế
xi là thuế nhà xí! Không món gì sản xuất ra mà không đánh thuế, không việc gì
làm ra mà không chịu thuế! Cho đến cái thứ hôi thúi kia mà cũng đánh thuế.
Chánh sách của Thực Dân cay nghiệt biết bao nhiêu!
Bởi
vậy tác giả mới kêu gọi đồng bào mau tỉnh dậy:
Thật
lắm lúc bầm gan tím ruột,
Vạch
trời kêu mà tuốt gươm ra.
Cũng
xương cũng thịt cũng da,
Cũng
hòn máu đỏ, con nhà Lạc Long.
Thế
mà chịu trong vòng trói buộc,
Mấy
mươi năm nhơ nhuốc lầm than
Than
ôi! Bách Việt hà san
Thông
minh đã sẵn khôn ngoan có thừa.
Hồn
mê mộng tỉnh chưa? Chưa tỉnh!
Anh
em mình phải tính sao đây?
Tác
giả khuyên phải học cái hay cái giỏi của nước ngoài, phải chú trọng kỹ nghệ,
thương mãi…, phải lập liên đoàn để bênh vực quyền lợi cho nhau…, phải mở mang
việc học hành, lấy Nhật Bản và Lang Sa làm gương, chớ không cần tìm kiếm đâu
xa. Nếu chúng ta kết một lòng lo với nhau, thì:
Đường
học thức dân đà mở rộng,
Người
Lang Sa rồi cũng nể nang.
May
ra được chữ bình hàng,
Trời
Nam đứng vững phương đông một mình.
Bài
văn kết thúc bằng mấy câu nói qua thân thế tác giả từ lúc xa quê hương, và nỗi
lòng lúc
được vua Nhật thưởng công đã giúp Nhật Bổn đánh Nga:
Thân
phiêu bạt đã đành vô lại,
Mấy
năm nay Thượng Hải Hoành Tân.
Chinh
Nga những lúc tùng quân,
Chút
thân bồ bá theo chân khải hoàn.
Nâng
chén rượu ơn ban hạ thiệp,
Gạt
hàng châu khép nép quì tâu:
Trời
Nam mù mịt ngàn dâu
Gió
thu như thổi dạ sầu năm canh !
Biết
bao nỗi bất bình chứa mãi,
Mượn
bút hoa mà giải quốc âm,
Tấm
thân bao quản cát lầm,
Khuyên
ai đúc chữ đồng tâm sau này…
Đoạn
kết văn chương cảm động nhất, và dư vị làm cho những ý tứ ở các đoạn trên thêm
thấm thía vào lòng người.
Như
trên đã nói, bài này cũng như những bài “Hải ngoại huyết thư” của cụ Phan Sào
Nam đã gây ảnh hưởng sâu rộng trong đám sỹ phu và một số đông công dân, nông
dân. Lòng yêu nước yêu nòi bị khích động, và bầu không khí Cách Mạng lần lần
lan rộng từ Bắc vào Nam…
Gây
được ảnh hưởng lớn như vậy là nhờ văn chương một phần. Một phần nữa, có lẽ là
phần lớn hơn, là do người viết ra những áng văn chương ấy. Người viết vốn là
người có thành tâm nhiệt huyết. Nguồn nhiệt thành của tác giả trào sang văn
chương, tạo nên những lời nồng nàn thành thật, đủ sức truyền cảm, rung cảm người
đọc người nghe. Phan Sào Nam, Nguyễn Thiện Thuật… là những bậc chí sỹ suốt đời
hy sinh cho dân cho nước, một lời nói ra là xuất tự đáy lòng, mang từng giọt lệ,
từng giọt máu, chớ đâu phải lời nói đầu môi. Bởi vậy những lời các cụ nói ra
thường thường được đại đa số đồng bào hưởng ứng.
Chứ
những lời nói của những kẻ chứa đầy tham vọng cá nhân, đặt quyền lợi cá nhân
lên trên quyền lợi Tổ Quốc, vì một chút hư danh một chút quyền lợi, có thể bán
cả Dân Tộc cho kẻ thù…, thì dù có hay đến đâu, có khéo đến đâu, cũng không làm
cho người tin tưởng được.
Cho nên văn chương
tuyên truyền, muốn gây được ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng, thì trước hết
phải chân thật. Nghĩa là không có ý phỉnh phờ lừa dối, và nhất là người viết ra
nói ra phải là người có đạo đức để khỏi bị phạm điều “xảo ngôn lịnh sắc” làm giảm
hiệu lực của văn chương.