Các
nhà văn thiên về mặt đạo đức dù cho quyển Kiều của Nguyễn Du là dâm thư đi nữa,
cũng vẫn phục tài nhả ngọc phun châu của Tiên Điền tiên sinh.
|
Văn
chương truyện Kiều thật là tuyệt diệu.
Đó
là bức gấm Ngân Sơn mà tơ chỉ và màu sắc từ Trung Hoa đem về pha chế để nhuộm
và kéo xe để dệt theo sở thích và kiểu mẫu của người Việt Nam. Đó là một tổ mật
ong vừa thơm vừa dịu do tinh ba của hương của phấn rút nơi trăm hoa trong vườn
thơ Đường, Tống, Minh, Thanh… đem về nhào trộn cùng hương hoa của đất nước mà gầy
nên.
Nếu
chúng ta chịu khó ngồi phân chất, chúng ta sẽ thấy được xuất xứ rõ ràng.
Ví
dụ:
Cỏ
non xanh tận chân trời,
Cành
lê trắng điểm một vài bông hoa.
Hoặc:
Lơ
thơ tơ liễu buông mành,
Con
oanh học nói đầu cành mỉa mai.
Thật
là những câu thơ tự nhiên hết sức, tự nhiên đến thành thiên nhiên, những câu
thơ tả những cảnh thông thường, ai cũng thấy được, cũng tả được, những câu thơ
dường như đối cảnh sanh tình, xuất khẩu thành chương… Có ngờ đâu đó lại là những
câu thơ thoát thai ở thơ Trung Quốc!
Câu
“Cỏ non…” đã dịch câu:
Phương thảo liên thiên bích,
Lê chi sổ điểm ba.
Nghĩa
là: “Cỏ thơm liền sắc biếc của trời, cành lê lác đác hoa vài điểm”.
Còn
câu “Lơ thơ…” thoát ý câu:
Dương liễu âm trung thùy nhược tuyến,
Hoàng ly học ngữ thí tân xoang.
Nghĩa
là: “Trong bóng dương liễu tơ mềm mại rũ xuống, con oanh vàng vừa học nói
đương ca thử khúc ca mới”.
Chắc
có bạn bẻ:
-
Như thế những cảnh trong truyện Kiều đều là những cảnh trong sách vở chớ không
thật, mà thơ cảnh cần phải chân.
Xin
thưa:
-
Mỗi phái thơ có một quan niệm về cảnh vật. đối với những nhà thơ cổ điển Việt
Nam cũng như Trung Quốc, cảnh vật là tấm gương phản chiếu tâm hồn. Cảnh vật ở
dưới ngòi bút của các nhà thơ Cổ Điển đều được lý tưởng hóa. Họ tả cảnh không
phải vì cảnh mà chính vì tình. Họ mượn cảnh để lồng tình, để gợi tình, để đại
diện cho tình… Phần nhiều là những cảnh tưởng tượng, những cảnh ước lệ. Nếu là
cảnh thực thì họ lựa trong đám phức tạp bao la, những nét, những điểm thích hợp
với tâm tình mà đưa ra giấy mực. Và một khi đã nằm vào văn chương thì cảnh vật
chỉ giữ được những gì có thể giữ được, còn sắc thái thì hoàn toàn là sắc thái của
tâm hồn người thơ.
Nguyễn
Du tiên sinh là một nhà thơ cổ điển. Quan niệm của tiên sinh đã biểu lộ trong
câu:
Cảnh
nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người
buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
Cho
nên cũng như những câu thượng dẫn, những câu sau đây đều là bóng dáng của con
tâm Thúy Kiều và Kim Trọng trong buổi chiều hội Đạp Thanh:
-
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Nhịp
cầu nho nhỏ cuối gành bắt ngang.
-
Dưới cầu nước chảy trong veo
Bên
cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.
Những
câu ấy vì có mang cảnh vật, nên tạm gọi là những câu tả cảnh đó thôi, chớ chiếc
cầu kia, dòng nước kia, cụm liễu kia… dưới con mắt của người khác thì đâu có những
dáng dấp ấy sắc thái ấy.
Và
cũng như những câu trên, chúng đều thoát ý ở thơ Trung Quốc:
Nhất cừ xuân thủy lộng sàn sàn.
Dương liễu kiều biên ẩn ánh gian.
(Một
dòng nước xuân chảy dợn dợn trong khoảng nửa ẩn nửa hiện của cây dương liễu thướt
tha bên cầu).
Khê hạ nhất hoằng lưu thủy bích,
Tiểu kiều tà bạng tịch dương đê.
(Dưới
khe một dòng nước chảy lục lìa. Bên chiếc cầu nhỏ bắt xiêng xiêng, bóng mặt trời
chiều ngã thấp xuống).
Những
câu trên chỉ dịch thoát ý.
Có
nhiều câu ý nghĩa dịch rất sít sao. Như:
Trước
sau nào thấy bóng người,
Hoa
đào năm ngoái còn cười gió đông.
Đó
là dịch hẳn nghĩa câu:
Nhân diện bất tri hà xứ khứ,
Đào ba y cựu tiếu đông phong.
Những
câu trên đều mượn cảnh để tả tình.
Có
lắm câu hoàn toàn tả tình mà Tố Như tiên sinh cũng mượn của cổ nhân. Như:
Sống
làm vợ khắp người ta,
Hại
thay thác xuống làm ma không chồng.
Thoát
ý câu:
Sinh vi vạn nhân thê,
Tử tác vô phu quỉ.
Hoặc
như:
Ví
dù giải kết đến điều
Thì
đem vàng đá mà liều với thân.
Xuất
từ câu:
Thương thiên nhược giải đồng tâm kiết,
Kim thạch vi minh ngã dữ quân.
(Trời
xanh dù có cởi mối dây đồng tâm đã buộc đi nữa, thời lời thề vàng đá ta cùng
mình vẫn giữ vững như xưa).
Nhiều
khi Tiên sinh lấy ý cả bốn câu thơ cổ một lần để dệt thành một đoạn thơ của
mình. Như hai đoạn tả tiếng đàn của Thúy Kiều gảy cho Kim Trọng nghe khi sơ ngộ
và lúc tái ngộ.
Đây
tiếng đàn lúc mới gặp nơi vườn Thúy:
Trong
như tiếng hạc bay qua,
Đục
như nước suối mới sa nửa vời.
Tiếng
khoan như gió thoảng ngoài,
Tiếng
mau sầm sập như trời đổ mưa…
Đó
là thoát ý bài “Văn Tranh” của Tôn Thị:
Sơ nghi táp táp hương phong động,
Hựu tự tiêu tiêu mộ vũ linh.
Cận nhược thanh tuyền lai bích chướng,
Viễn như huyền hạc hạ thanh minh.
(Mới
nghe thì ngờ là gió thơm bay phất phất, rồi lại như mưa đêm tuôn rào rào. Gần
giống như tiếng suối từ nơi hố biếc chảy về, xa dường chim huyền hạc từ trên
không kêu vọng xuống).
Đoạn
thứ hai, lúc hai bên đoàn tụ:
Khúc
đâu đầm ấm dương hòa
Ấy
hồn hồ điệp hay là Trang Sinh.
Khúc
đâu êm ái xuân tình,
Ấy
hồn Thục Đế hay mình Đỗ quyên.
Trong
sao châu nhỏ doành quyên,
Ấm
sao hạt ngọc Lam Điền mới đông!
Thoát
ý bài “Cẩm Sắc” của Lý Thương Ẩn:
Trang Sinh hiểu mộng mê hồ điệp,
Vọng Đế xuân tâm hoán đỗ quyên.
Thương hải nguyệt minh châu hữu lệ,
Lam Điền nhật noãn ngọc sanh yên.
(Mộng
sớm của Trang Sinh mê thành con bươm bướm, lòng xuân vua Thục Đế hóa làm chim
cuốc cuốc. Bóng trăng soi sáng biển xanh, hạt châu có nước mắt, mặt trời sưởi ấm
cõi Lam Điền, hạt ngọc sanh ra khói).
Những
câu Kiều tuyệt diệu. Tinh thần của nguyên tác đều lột được một cách tài tình.
Dù mất nhiều công phu, chúng ta cũng không thể tìm thấy ngấn tích phiên dịch. Lắm
khi chúng ta lại ngờ rằng “cành kia chẳng phải cội này mà ra”.
Lại
có khi tiên sinh dồn hai ba câu chữ Hán, rồi nhào trộn, biến chế thành hai vế lục
bát hết sức tài tình. Như hai câu nói về người khách viễn phương đến tìm Đạm
Tiên:
Thuyền
tình vừa ghé đến nơi,
Thì
đà trâm gãy bình rơi bao giờ.
Lâu
nay giảng Kiều nhiều người chỉ dựa trên hai câu này:
Kim nhật tình châu phương đáo ngạn
Bình trầm ba chiết dĩ đa thì.
(Ngày
nay thuyền tình mới đến bến, mà bình chìm hoa gãy đã từ lâu).
Vì
chỉ dựa trên hai
câu ấy mà giảng, nên có người đã ngờ rằng câu Kiều kia bị người sau chép sai
nguyên tác, và đề nghị sửa lại là “Thì đà HOA gãy bình rơi bao giờ” cho đúng
nghĩa câu thơ cổ đã sanh ra.
Có
ngờ đâu Tiên Điền đã mượn ý hai câu trên để làm vế lục “Thuyền tình vừa ghé đến
nơi”, còn vế bát “Thì đã trâm gãy bình rơi bao giờ” lại mượn chữ và ý trong bốn
câu đầu bài thơ trường thiên cổ thể của người đời Đường:
Tỉnh để dẫn ngân bình,
Ngân bình dục thượng ti thằng tuyệt.
Thạch thương ma ngọc trâm,
Ngọc trâm dục thành trung wương chiết.
(Đáy
giếng kéo bình bạc, bình bạc hầu lên dây tơ đứt. Trên đá mài trâm ngọc, trâm ngọc
hầu thành, nửa chừng bị gãy đôi).
Lấy
da nách chồn, nơi này một ít nơi kia một ít, để may chiếc áo cầu không thể thấy
đường chắp vá như thế thì thật là khéo. Phải là tay thợ trời mới có thể đến được
diệu xứ một cách dễ dàng như thế kia.
Đọc
câu:
Thuyền
tình vừa ghé đến nơi,
Thì
đà trâm gãy bình rơi bao giờ.
Không
cần biết đến những câu thơ chữ Hán, chúng ta vẫn hiểu trọn được ý nghĩa. Chỗ
hơn người là đó.
Những
câu trích dẫn trên đây chỉ là một phần nhỏ. Truyện Kiều của Tiên Điền phần nhiều
mượn ý trong thơ chữ Hán, như trên đã nói. Trong tập Bút Hoa, cụ Phan Mạnh Danh
(1866-1942) đã dùng văn Kiều mà dịch thơ cổ, và dùng thơ cổ để dịch văn Kiều, một
cách sít sao và tài bộ. Ví dụ dịch câu:
Ấy
ai dặn ngọc thề vàng
Bây
giờ kim mã ngọc đàng với ai!
Cụ
lấy một câu trong Tình Sử, một câu trong Tống thi, ráp lại thành một cặp thơ chữ
Hán rất hay, mà ý nghĩa sát với câu Kiều, có thể nói là từng chữ:
Dát ngọc tương kim thành để sự,
Ngọc dường kim mã thuộc hà nhân!
Và
mượn một câu thơ Tống một câu thơ Đường ghép lại:
Cửu thập thiều quang kim quá bán
Đầu thoa yên tử dĩ phi lai.
để
dịch câu:
Ngày
xuân con én đưa thoi
Thiều
quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Thật
là thú chơi thanh nhã của bậc hay chữ, một thú chơi giúp cho kẻ hậu sinh biết
được xuất xứ của văn chương truyện Kiều và thấy rõ được tài “ăn dâu, hút mật” của
Tố Như Tiên sinh.
Nói
tóm lại, văn chương truyện Kiều, những câu thơ thoát ý thơ cổ cũng như những
câu sáng tác, đều là những câu thơ hồn thành: Những ngấn chạm trổ, những đường
may vá không thể tìm thấy. “Dụng xảo vô phủ tạc ngấn, dụng điển vô điền xế ngấn”
như thế tức là đã nhập diệu vậy. Những câu thơ thoát ý, nhiều câu chúng ta nhận
thấy văn chương lại có phần êm đẹp hơn cả nguyên tác! Rõ là những giọt mật ong,
mùi vị thơm ngon hơn nhụy hoa còn nguyên chất, những bức gấm màu sắc rực rỡ gấp
mấy lần tơ chỉ lúc chửa lên khuôn.
Tài
tình thay Tố Như!