Ở
An Nhơn và Phù Cát có ba nhà túc nho đầu Phật, nổi tiếng về thơ Quốc âm:
-
Hòa thượng Bích Liên ở An Nhơn.
-
Cư sỹ Minh Tịnh ở Phù Cát.
-
Thượng Tọa Liên Tôn ở Phù Cát.
Cả
ba đều đậu tú tài triều Thành Thái. Thượng Tọa Liên Tôn lúc còn nhỏ học Nho
cùng Cư sỹ Minh Tịnh, khi lớn học Phật cùng Hòa Thượng Bích Liên.
Ba
vị đều đã qui tịch trên dưới ba mươi năm nay.
Hòa
Thượng Bích Liên và Thượng Tọa Liên Tôn còn để lại:
-
Bộ Kinh Thủ Lăng Nghiêm diễn dịch (dịch chung).
-
Một số thi ca đăng ở tạp chí Từ Bi Âm.
Cư
sỹ Minh Tịnh còn để lại:
-
Tuồng hát bội Lưu Bình Dương Lễ.
Minh
Tịnh thi tập (một nửa chữ Hán, một nửa Quốc âm).
Thơ
của Hòa Thượng Bích Liên và Thượng Tọa Liên Tôn, tôi đã được đọc, song không
còn thuộc được bài nào vì một là đã lâu ngày, hai là lối thơ tải đạo khô khan
khó nhớ.
Hòa
Thượng Bích Liên và Thượng Tọa Liên Tôn luyện tánh khắc khổ từ lúc nhỏ. Trái lại
Cư sỹ Minh Tịnh, lúc thanh xuân là một tay phong lưu tài tử. Cho nên mặc dù qui
y Tam Bảo, tánh tình vẫn khoáng đạt hào hoa. Tác phong trông có vẻ tiên hơn vẻ
Phật. Do đó văn chương lúc già cũng như lúc trẻ, không bị bệnh hữu thanh vô vận,
hữu cán vô ba.
Tập
Lưu Bình Dương Lễ rất được giới ca sỹ hoan nghênh. Khách, câu ngâm, câu bạch,
câu thán…, và thường diễn sự tích Trung Hoa. Tuồng Lưu Bình Dương Lễ phá lệ: Tất
cả các lối đều dùng Quốc âm và diễn sự tích phổ thông của người Việt.
Tôi
còn nhớ được bài thơ của Lưu Bình ngâm lúc bị Dương Lễ bạc đãi:
Bạn
bè như thế thế thời thôi!
Ôm
tấm lòng này ỷ ỷ ôi!
Sống
thác đã thề chung giữ một
Sang
hèn sao vội rẽ làm đôi?
Tiếng
đàn tri kỷ nghe sao vắng
Chén
rượu đồng tâm lạt hẳn rồi
Miệng
cắn răng cười, cười lại khóc
Thơ
làm đủ lối: Tả tình, tả cảnh, vịnh sử, vịnh vật, phúng thế, tức sự…
Cư
sỹ cùng tôi vốn có mối liên hệ gia đình, nên tập thi và bổn tuồng tôi có đủ.
Song trải mười năm kháng chiến, hầu hết văn thơ của tiền nhân tôi sưu tầm được
đều tàn trong khói lửa! May trong Minh Tịnh thi tập, có một số bài tôi thích
nên còn nhớ được:
Thạch
đỗng xưa tu nổi tiếng thầy
Thầy
nay đâu vắng dấu còn đây
Giữ
chùa ông hộ non xây đá
Cúng
phật vùa hương biển kéo mây
Nước
nhỏ lon bon chuông dưới suối
Gió
khua lốc cốc mõ đầu cây.
Những
ai phiền não trường sanh lợi
Thấy
cảnh thời lòng cũng giải khuây.
DẠY
HỌC
Cầm
thư một gánh nặng hai vai
Cái
thú phong lưu nghĩ nhớ hoài
Mở
quyển thanh huỳnh roi dấu thánh
Rèn
câu trung hiếu đúc lòng trai
Lạc
quần sớm nhủ đôi trò bé
Nhàn
dưỡng chiều ngơi một giấc dài
Nho
nhã mặn nồng riêng một thú
Bên
đương danh lợi mặc dù ai.
VỊNH
HOA LAN
Mai
cúc cùng nhau kết bạn bè
Dám
đem xanh đỏ với đời khoe
Bóng
chen sân Tạ càng cao cách
Hương
ngát đình vương lắm phẩm đề
Giục
khách tài ba ngơ ngẩn mộng
Say
tình công tử sững sờ xe
Ôm
màu tuyệt sắc chờ người thưởng
Bao
quản phong trần mấy lớp che.
Đưa
một thanh niên đi thi, có câu:
Quyển
xếp thầm cưới râu lão đố,
Đường
dài mặc sức vó long câu.
Buổi
trung niên bị đoạn huyền, Cư sỹ cưới một quả phụ làm kế thất. Người quả phụ vốn
là người có học, nên đêm hợp cẩn, Cư sỹ có nhiều thơ tặng. Có câu:
Vin
nhánh hương trời tuy có muộn
Nhìn
gương nước thủy vẫn chưa trôi.
Những
bài khác trong thi tập, văn chương đều lão luyện như thế cả. Không biết hiện thời,
gia đình còn giữ được toàn tập Minh Tịnh chăng?
***
Đồng
thời cùng cụ Phạm Trường Phát, nhưng thuộc lớp hậu bối, ở Phù Mỹ có cụ NGUYỄN
XUÂN KIỀU cũng nổi tiếng hay chữ và ngông cuồng.
Lực
học uẩn súc. Tài văn hoạt bát. Song tánh tinh ưa trào lộng châm biếm. Nên trải
bao nhiêu khoa, khoa nào vào trường tư cũng bị quan trường đánh hỏng. Tức mình
bỏ thi, theo ghe đi ngao du khắp trong Nam ngoài Bắc. Qua lại những nơi phiền
ba đô hội cùng khách phong lưu, cụ mang phải bệnh nghiện A phiến. Tài ba cũng
như tài sản lần lần tan theo khói mây.
Mãi
đến năm Ất Dậu (1885), kinh đô Huế thất thủ, vua Hàm Nghi xuất bôn, cụ mới giật
mình tỉnh ngộ. Bởi chiếu Cần Vương vừa ban bố, cá sỹ phu trong nước đều rập
nhau. Kẻ đem tài thao lượt ra diệt thù, kẻ đem tài kinh luân ra cứu quốc. Cụ
nghĩ mình cũng mang danh học thức như người, mà trong lúc quốc gia hữu sự lại
đành đắm mình trong vòng trụy lạc, trương mắt trắng ra nhìn cảnh tang tóc của
nước non, thì còn cảnh bi ổi nào hơn nữa. Cụ bèn quyết chí trừ bỏ, gian khổ
nhưng kiên trì, chỉ một tuần trăng là thành hiệu. Cụ ăn mừng bằng một bì văn tế
ả Phù Dung. Có nhiều câu xuất sắc:
Chẫu
Mãn sinh thành, cõi nam tụ bạ.
Trên
lượng thánh biết tệ đoan nhặt cấm, nghiêng mình nương náu lánh người đông;
Dưới
thằng Ngô xin nạp thuế những nay, trỗ mặt nghênh ngang ngoài cõi hạ.
………………………………
Giường
thất bảo đặt yên một cõi, ngửa nghiêng nương gối bích thảnh thơi;
Màn
bát tiên vây phủ bốn bề, lần lượt cởi xiêm vàng thong thả.
………………………………
Ối
thôi thôi!
Đất
chinh chinh xe trước đã gập ghình,
Đường
phẳng phẳng ngựa sau đừng vội vã.
Ra
tay quyết dẹp nơi khói lửa, rửa gan vàng bồi đắp lại giang san;
Cất
lưng này dậy khỏi chiếu chăn, xuê gót ngọc vững bền trên xa mã.
Đổi
đèn lửa làm cây ngọc chúc, để mà soi bốn bê điều hòa;
Thay
móc tim làm ngọn kim qua, để mà dẹp hai phương giặc giã.
………………………………
Quả
như lời cụ tế Nha phiến, khi vừa bỏ hút, cụ liền gia nhập phong trào Cần Vương.
Cụ chịu chung một số phận cùng các văn thân Bình Định. Sau khi được phóng
thích, cụ về nằm nơi quê hương, lấy việc ngâm thơ đọc sách, viếng bạn thăm thầy,
làm thú tiêu khiển.
Cụ
sở trường về Quốc âm và có tài thất bộ. Nhưng văn thơ của cụ không còn truyền
được mấy. Ở Bình Định nhiều người thuộc bài văn tế nha phiến và bài văn lục bát
trường thiên kể những hải khẩu, những thắng cảnh, những địa danh có nhiều đặc
điểm…, ở dọc theo bờ biển Việt Nam, từ Phú Xuân vào Gia Định, mà cụ đã soạn
trong lúc theo ghe bầu đi ngao du.
Bài
này văn chương bình dân. Cụ soạn ra chỉ để giúp cho bạn đi ghe hát mua vui, cho
nên cần giản dị cho dễ thuộc dễ nhớ:
…Gát
ra mấy mũi Sa Hoàng
Kìa
Kìa lố thấy Tam Quan nhiều dừa
Anh
em thề thốt buổi xưa
Nam
thanh nữ tú ắt vừa con ngươi
Gặp
nhau chưa nói đã cười
Bước
vô Từ Phú là nơi nhiều ghè
Dông
trên suối biếc đẹp ghê
Muốn
cần nước củi ta về Lộ Giao…
Thơ
còn truyền được đôi ba bài. Nhiều người thuộc là bài Vịnh nhóm đảo Trân Nằm (Iles
aux buffles) ở trước cửa biển Đề Gi:
Trâu
ai cắc cớ chẳng ăn đồng
Lúc
ngúc ra nằm giữa biển đông
Sóng
bạc lô nhô xao trước mặt
Rong
xanh lóm đóm đóng bên hông
Cán
rôi Nịnh Thích không sờn dạ
Ngọn
lửa Điền Đan khó cháy lòng
Phải
gặp ông Y mà hỏi thử
Lúc
còn đi đó đi đây, cụ có giao du với một người học sanh tên Lê Lưu quán Nghệ An.
Họ Lê tới lui Bình Định, nhận thấy người em gái cụ có hạnh có học [4], muốn kết nghĩa
trăm năm.
Giai
nhân cũng tỏ ý thuận. Họ Lê bèn gởi một bài thơ tỏ tình keo sơn:
Đặng
lời mừng đã thấm tâm can
Trước
gió trong trăng thử đá vàng
Bước
gặp chàng Kim hiên Lãm thúy
Duyên
ưa chị Trác khúc Cầu hoàng
Trầu
nguồn nhỏ miếng cay mà đượm
Chuông
gióng xa miền khẽ cũng vang
Một
chuyến nữa là ba xuống đó
Mau
mau sắm dọn chén quỳnh tương.
Cụ
gà cho cô em họa vận nguyên xướng, lại tục thêm một bài trường thiên song thất:
Vẫn
biết Bình Nguyên gởi ruột gan
Ý
cao vâng lãnh mấy lời vàng
Bốn
phương đường cả giong kỳ ký
Trăm
thước nhành cao đỗ phụng hoàng
Duyên
cưu chi tiện sắc cầm vang
Một
lời đã hẹn trăm năm nhớ
Bách
cảm tương hay khoan khoan đã
Bạn
bố kinh vội vã chi mà
Phải
người sớm nguyệt trưa hoa
Đó
có dạ ít nhiều non nước
Đây
cũng nguyền sau trước lửa hương
Mấy
khi gặp gỡ bạn vàng
Cửa
đào lý ngao du lắm lúc
Nhà
chi lan thưởng độc đòi khi
Cùng
nhau tâm phúc tương kỳ
Dẫu
cho giao tấc khôn bì trúc mai
Nửa
con mắt dầu ai xanh trắng
Một
đoạn lòng đây chẳng bạc đen
Càng
năm càng biết càng quen
Tóc
tơ mong vấn sách đèn thêm thân
Nên
cũng muốn Châu Trần đem lại
Há
ngại rằng hồ hải đưa qua
Còn
đương tang tóc nỗi nhà
Dám
cho phận liễu vội ca thơ Đào
Đỉnh
Vu hiệp chiêm bao dầu đó
Gái
Dương Đài vân vũ dám đâu
Đành
lòng chờ đó ít lâu
Hay
tình có vội mặc dầu ai ai…
Theo
những vần thơ trên thì cụ Nguyễn Xuân Kiều không đeo thói khinh bạc như tiếng đồn.
Rõ là người có tình có nghĩa, có lượng bao dung. Bản tánh là thế. Nhưng trước
những cảnh chướng tai gai mắt, những kẻ bất lương khả ố… thì lời văn của cụ trở
nên cay chua, độc địa. Như để chỉ trích một viên tri huyện tham ô, cụ có bài VỊNH
ỐNG NHỔ, còn truyền được cặp trạng:
Góp
dùm bọt dãi làm nên phận
Có
một khóa sanh người Quảng Nam có ý chê học lực cụ tầm thường. cụ bèn thách làm
thơ đọ tài. Đề bài “Rắn muốn nuốt voi”, hạn vận VOI. Nhang thắp chưa được nửa
cây, cụ đã đưa thơ ra trình chính:
Hũy
chà con rắn khéo loi choi
Bụng
dạ dường bao muốn nuốt voi?!
Nghểnh
cổ lay hoay bò dưới gót
P`ùng
mang lỏm ngỏm ghé bên vòi
Thêm
chân mấy cũng coi còn nhỏ
Úp
thúng xem qua vẫn cứ lòi
Cao
thấp nhủ cho kia biết phận
Những
áng thi ca cụ Nguyễn Xuân Kiều còn để lại, thơ phúng thích cũng như thơ tình
thơ cảnh, văn chương không trang sức. Lời không được văn nhã, giọng không được
du trường, song vẫn có hương có vị. Hương của các giống hoa đồng, khô khô lợt lợt.
Vị của quả đu đủ:
Chả
nem tuy chẳng bằng khi có
Cho
nên người Bình Định rất quí. Hế nghe được bài nào câu nào cũng đều ghi chép lại,
để gìn giữ cùng những di sản tinh thần của các vị tiền bối khác, làm kho tàng
văn học cho tỉnh nhà.
***
Ở
Hoài Ân có hai nhân vật mà những người thuộc lịch sử Việt Nam không mấy ai
không biết. Đó là nhà chí sỹ Tăng Bạt Hổ và vị trung thần Vũ Đình Phương.
Cụ
TĂNG BẠT HỔ có công lãnh đạo phong trào Cần Vương miền Bắc Bình Định và sau khi
phong trào bị dập tắt lại cố sức hô hào cách mạng cùng hướng dẫn cụ Phan Sào
Nam sang Trung Hoa.
Đi
ngang qua Hoài Ân nhìn đỉnh hoàn Tổng Dinh là nơi cụ đóng nghĩa binh chống
Pháp, khách du quan có câu:
Mây
chiều quấn quít hòn Dinh
Nhớ
Tăng Tổng trấn hết mình cứu dân
Non
sông chưa sạch bợn trần
Nắng
mưa bao quản tấm thân quê người
Tre
tàn còn có măng tươi
Gương
sưa còn tỏ còn người soi gương.
Cụ
văn võ toàn tài, song vì mãi lo việc cứu quốc, nên không có thì giờ để chạm trỗ
văn chương.
Còn
cụ VŨ ĐÌNH PHƯƠNG thì sở trường về tuồng hát bội. Sau khi đậu cử nhân, cụ được
bổ làm việc tại Các. Vua tđ sắc chỉ cho cụ cùng cụ Đào Tấn và cụ Ngô Quí Đồng
soạn bộ tuồng Vạn Bửu Trình Tường.[12]
Văn
chương trong những đoạn Vạn Bửu Trình Tường do cụ soạn không biết như sao, vì
ngoài dân gian ít người được đọc. Và ngoài việc soạn chung cùng hai cụ Ngô Đào,
tuồng Vạn Bửu, không nghe truyền giai phẩm nào khác của cụ.
Cụ
làm quan đến chức Long Võ Đình Kiểm viện. Sau tòng vong vua Hàm Nghi và qua đời
nơi đất khách.
Trong
cơn quốc biến năm Ất Dậu, sống chết theo vua chỉ một mình cụ! Thời nhân có câu:
Ăn
nhờ lộc nước bao nhiêu kẻ
Sống
thác theo vua chỉ một mình.
[1] Nhất tác: Bạn vàng,
ơi hỡi! Bạc hơn vôi!
[2] Chùa Ông Núi tức là
chùa Linh Phong ở trên núi Phương Phu quận Phù Cát. Cảnh chùa rất đẹp. Xưa kia
có một thiền sư người Trung Quốc đến tu trong hang đá, tục gọi là Ông Núi (Xem
bài Linh Phong của cụ Đào Tấn ở đoạn trước. Trong Nước Non Bình Định, tôi có
nói rõ về chùa này).
[3] Bài này nghe đỗi chỗ
truyền khác:
Trâu ai sao chẳng ăn ngoài đồng
Cắc cớ ra nắm mé bể đông
Sóng bạc lao xao quơ trước mỏ
Rêu xanh lún phún mọc bên hông
Câu ca Nịnh Thích không vào dạ
Ngọn lửa Điền Đan chẳng sém lông
Phải gặp ông Y mà hỏi thử
Nội Sằn thuở trước có cày không.
[4] Cụ ông là Nguyễn Xuân
Nhã, đậu tú tài. Hai anh em đều học cụ ông.
[5] Trong tập Danh Nhân
Bình Định của giáo sư Bùi Văn Lăng thấy chép đôi câu, đôi chữ khác với ba bài
thượng dẫn.
[6] Câu này sách của giáo
sư Bùi chép:
Đành lòng chờ đó rồi đây đã
Gởi nói khoan khoan sắm tửu tương.
Câu này lấy tích họ Hàn gặp tiên
tặng thơ, có câu “Nhất ẩm quỳnh tương bách cảm sanh”, sau gặp vợ đẹp tại Lam
Kiều.
[7] Trác Văn Quân và Tư
Mã Tương Như, Thúy Kiều và Kim Trọng.
[8] Mạnh Hạo Nhiên đời
Đường, Lưu Linh đời Tấn.
[9] Trong sách Danh Nhân
Bình Định, chép:
Góp người bọt dãi làm nên nước
Cởi lớp tanh hôi mới sạch mình.
[10] Trong Danh Nhân Bình
Định chép bốn câu sau:
Thêm chân đó cũng coi còn nhỏ
Úp thúng đây rồi ngõ cũng lòi
Lớn nhỏ nói cho xin biết phận
Leo thang ớ cóc chớ quen đòi.
[11] Cặp luận bài Vịnh Thu
Đủ của cụ tú Nguyễn Khuê (Đã giới thiệu ở đoạn trước).
[12] Đã nói rõ ở đoạn trước.