THƠ
TỨ NGÔN là một thể thơ cổ nhất, ở Trung Quốc cũng như ở Việt Nam.
|
Những
thơ trong Kinh Thi hầu hết đều dùng thể tứ ngôn. Ví dụ:
Yêu yêu thảo trùng,
Địch địch phụ chung.
Vị kiến quân tử,
Ưu tâm xung xung.
Diệc ký kiến chỉ,
Diệc ký cấu chỉ,
Ngã tâm tắc giáng.
Trắc bỉ Nam san,
Ngôn thể kỳ khuyết,
Vị kiến quân tử,
Ưu tâm chiết chiết !
Diệc ký kiến chỉ,
Diệc ký cấu chỉ,
Ngã tâm tắc duyệt.
Trắc bỉ Nam san,
Ngôn thể kỳ vi,
Vị kiến quân tử,
Ngã tâm thương bi.
Diệc ký kiến chỉ,
Diệc ký cấu chỉ,
Ngã tâm tắc di.
Tản
Đà tiên sinh dịch là:
Con
thảo trùng nó kêu,
Con
phụ chung nó nhảy.
Mong
chàng chẳng thấy,
Áy
náy nguồn cơn.
Trèo
lên trái núi Nam sơn,
Ta
hái rau khuyết,
Lòng
lo khôn xiết !
Ta
hái rau vi,
Lòng
ta thương bi !
Mong
chàng chàng hãy còn đi,
Mong
chàng chẳng thấy ta thì nhớ thương !
Bao
giờ cho thấy mặt chàng,
Cho
ta vui vẻ nở nang tấm lòng.
Bài
trên trừ những nhà nho, những nhà văn tân học ưa thích cổ văn cổ thi, phần đông
người hiện thời ít ai thuộc. Nhưng có lắm bài mãi đến nay vẫn còn phổ biến, vì
trong văn chương Việt Nam từ xưa đến nay thường nhắc nhở đến. Như bài:
QUAN THƯ
Quan quan tư cưu
Tại hà chi châu.
Yếu điệu thục nữ,
Quân tử hảo cầu.
Nghĩa là:
Chim
cưu kìa lứa kìa đôi,
Quan
quan tiếng gọi trên doi nhộn nhàng
Người
xinh nết lại dịu dàng,
Lòng
quân tử ước cùng nàng kết duyên.
Và
bài
ĐÀO YÊU
Đào chi yêu yêu,
Chước chước kỳ hoa.
Nhi tử vu qui,
Nghi kỳ thất gia.
Tản
Đà dịch:
Đào non rỡ rỡ
kìa hoa,
Cô về hòa thuận
cửa nhà chồng cô.
Những
bài Kinh Thi thượng dẫn, cũng như những bài khác trong Kinh, đọc lên dù không
hiểu nghĩa như sao, chúng ta cũng thấy êm đềm thích thú. Đó là nhờ âm điệu nhẹ
nhàng dịu dàng.
Còn
thơ Tứ ngôn ở Việt Nam, chúng ta thường gặp trong các câu ca dao:
+
Trời mưa trời gió,
Xách
đó đi đơm.
Chạy
về ăn cơm,
Chạy
ra mất đó.
Từ
ngày mất đó, đó ơi !
Đây
không nghe được một lời nước non !
+
Con chim chiền chiện
Nó
liệng trên cao
Nó
kêu làm sao
Tằng
lăng tiu líu !
Còn
em lịu địu
Không
nỡ dứt tình.
Chờ
khi thanh vắng một mình,
Đón
anh em hỏi phụ tình tại ai ?
+
Lác đác mưa ngâu,
Sình
sịch mưa ngâu,
Lá
ngâu rụng xuống,
Bông
lau phất cờ…
Nước
trong xanh, lặng ngắt như tờ,
Một
đàn cá lớn nhấp nhô chân ghềnh…
Kìa
ai thấp thoáng đầu ghềnh ?
+
Một bộ áo gấm,
Ba
tấm nhiễu vuông,
Ngựa
ô yên khấu bằng vàng,
Chân
nạm bằng bạc,
Thiếp
sắm cho chàng
Kinh
lại hồi Kinh.
Vì
bốn chữ khó hát cho nên trong ca dao ở đoạn cuối thường nối bằng những câu lục
bát. Toàn bài bốn chữ chỉ thấy trong những câu nói lối, hoặc trong các bài vè:
+
Con chuột mắc bẫy
Vì
gốc tre già
Đẽo
gốc tre ra
Làm
cây đòn xóc.
+
Con chim sáo sậu
Ăn
cơm nhà cậu
Uống
nước nhà cô
Đánh
vỡ bát ngô
Cô
đền hay cậu ?
+
Sao hôm lấp lánh
Sao
mai long lanh
Cuốc
đã sang canh
Gà
kia gáy rộ
Chích
chòe lìa tổ
Trời
đà rạng đông.
vân
vân…
Và
như:
Cái
vẻ cái ve,
Cái
vè đánh bạc
Đầu
hôm xao xác,
Mặt
tốt như tiên,
Canh
khuya hết tiền,
Mặt
như chim cú.
Cái
đầu sù sụ,
Con
mắt trỡm lơ.
Bộ
đi thất thơ,
Như
hình chó đói.
Chân
đi cà khói,
Dạo
xóm dạo làng.
Quần
rách lang thang,
Lấy
tay mà túm.
Thể
tứ ngôn ở Trung Hoa thịnh hành từ đời nhà Hán trở về trước. Trong đời nhà Hán,
nổi tiếng về thể thơ này nhất là cha con họ Tào. Sau họ Tào không còn ai chuyện
dùng nữa, thể Tứ Ngôn nhường chỗ cho thể Ngũ Ngôn và Thất Ngôn.
Ở
Việt Nam ta, như trên đã nói, thể Tứ Ngôn thường thấy trong ca dao và vè. Thể tứ
ngôn, âm điệu ngắn, khó ngâm khó hát, nhưng nhịp dòn, hơi gấp, đọc lên có vẻ
nhí nhảnh, nên trong ca dao thỉnh thoảng mới dùng, trái lại trong lối vè thì thể
tứ ngôn chiếm gần hết ưu thế. Lối vè lại rất thông dụng trong đại chúng, nên thể
tứ ngôn Việt Nam thường gọi là “Thể Vè”, cũng như thể lục bát gọi là “Thể Ca”,
thể song thất lục bát gọi là “Thể Ngâm” vậy.
Thể
Vè thường dùng trong văn chương hài hước, châm biếm. Còn thể tứ ngôn Trung Hoa,
người Việt Nam ít thấy dùng đến.
Tuy
cũng là “Tứ Ngôn” song thể của Ta và của Tàu có nhiều điểm khác nhau.
Trước
hết khác ở vần.
Tứ
Ngôn Tàu vần cách. Trừ câu thứ nhất ra, vần luôn luôn nằm ở câu chẵn và luôn
luôn là vận chân (cước vận).
Còn
Tứ Ngôn của ta thì thường dùng vần liền, liên vận và vần ở lưng (yêu vận) hoặc
vần ở chân (cước vận). Vần lại cứ luôn luôn thay đổi bằng trắc.
Xem
những bài trên thì rõ.
Điểm
thứ hai, hai bên khác nhau vì điệu.
Điệu
của Tàu hoãn, điệu của ta cấp. Điệu Tàu đi thẳng, điệu ta đi kiểu chữ CHI.
Cho
nên thể Tứ Ngôn của Tàu đọc nghe nghiêm trang, yểu điệu. Thể Tứ Ngôn của ta đọc
nghe linh hoạt nhanh nhảu. Thể Tứ Ngôn của Tàu trong trường hợp vui, buồn… đều
dùng được. Thể Tứ Ngôn của ta chỉ dùng trong trường hợp vui vẻ nghịch ngợm mà
thôi. Gặp trường hợp này, thể Tứ Ngôn Tàu thua ta nhất định.
Nhưng
ngoài những câu ca dao và vè, các nhà thơ tiền bối, từ đầu thế kỷ XX trở về trước
không thấy để lại cho văn học Việt Nam những vần thơ Tứ Ngôn đáng giá.
Gần
đây cụ cử PHAN ĐÌNH CHI cho ra đời tập “Văn chương Tập Kiều” của cụ soạn thời
Tiền Chiến. Trong tập có những câu đối tứ tự trích trong các câu Kiều, đối rất
sít sao cân xứng:
Một
niềm vì nước,
Bốn
bể không nhà.
Đi
đời nhà ma,
Ở
đây cửa Phật.
Cỏ
lan mặt đất,
Sét
đánh lưng trời.
Cằm
én mày ngài,
Đầu
trâu mặt ngựa.
Nửa
năm hương lửa,
Bốn
mùa gió trăng.
Chưa
dám hở răng,
Còn
toan mở mặt.
Càng
treo giá ngọc,
Dẫu
đúc nhà vàng.
Vâng
biết ý chàng,
Bởi
nghe lời thiếp.
Hãy
còn nặng nghiệp,
Mà
đã ngứa nghề !
Tìm
đường thăm quê,
Chạnh
niềm nhớ cảnh.
Hoa
chào ngõ hạnh,
Tiệc
mở nhà lan.
Sửa
chốn thanh nhàn,
Tìm
nơi xứng đáng.
Một
thiên bạc mạng,
Hai
chữ đồng tâm.
Khi
gặp chàng Kim,
Sớm
đưa Tống Ngọc.
Dẫu
thay mái tóc,
Hư
vày mối tơ.
Mặc
nường nằm trơ,
Khiến
người ngồi đó…
vân
vân…
Thật
là tài ! Nhưng có người bảo:
-
Có gì là tài. Chỉ thuộc Kiều là làm được.
Cũng
đúng. Song làm được sao lâu nay không ai làm? Thật chẳng khác lời dèm chê Kha
Luân Bố (Christophe Colomb).
Trong
các tập thơ của các nhà thơ hiện đại xuất bản thời Tiền Chiến, thấy có nhiều
bài làm theo thể tứ tự. Theo thể tứ tự song không phải theo hẳn cách điệu xưa,
mà có nhiều thay đổi mới, hoặc ở cách gieo vần, hoặc ở cách nghỉ hơi, hoặc ở
cách phân đoạn…
Như
trong tập VÀNG SAO của Chế Lan Viên, có bài:
CHIỀU
TIN TƯỞNG
Xoan
ngưng suối đỏ
Lầu
cây bước vàng
Bóng
Hè đã ngã
Bên
đường Thu sang
Cánh
đan mối gió
Thuyền
chim rộn ràng
Tường
nhà ai đó
Cửa
ngơ ngẩn buồn
Trên
lòng bé nhỏ
Một
trời mây sang
Giọt
đồng tan vỡ
Dư
thanh ngỡ ngàng
Có
ai thương nhớ
Trong
miền vương sương
Thấp
như hơi thở
(Màn
buông nhẹ nhàng)
Bây
giờ gục ngã
Những
hình mến thương
Xin
đưa thánh giá
Về
trong hồn buồn
Đêm
đà bỡ ngỡ
Rưng
rưng sao vàng
Lòng
tằm khôn gỡ
Như
bài CHỊ EM trong tập Tiếng Thu của Lưu Trọng Lư:
Em
bước vào đây,
Gió
hôm nay lạnh,
Chị
đốt than lên,
Để
em ngồi cạnh.
Mai
chị lấy chồng,
Ở
mãi Giang Đông,
Dưới
làng mây trắng,
Cách
mấy con sông.
Chăn
lụa gối bông,
Chị
mang theo chồng.
Mai
phòng chị lạnh,
Đốt
dùm nén hương.
Chồng
chị là ai,
Chị
nào có biết !
Đợi
đến ngày mai,
Nhìn
qua kẽ liếp.
Sao
em thổn thức ?
Buồn
nỗi gì em ?
Nay
em khóc chị,
Mai
ai khóc em ?
Em
đưa củi vào,
Lửa
hồng thêm đượm.
Rót
chén rượu đào,
Cho
lòng thêm thắm.
Uống
thêm chén nữa,
Mừng
buổi chia ly.
Tiễn
ngày vui hết,
Tiễn
thời xuân đi…
Bài
này và bài Chiều Tin Tưởng làm theo thể Kinh Thi. Cũng theo thể Kinh Thi, Huy Cận
có bài ĐIỆU BUỒN:
Mưa
rơi trên sân.
Mái
nhà nghiêng dần…
Ôi
buồn trời mưa !
Nhìn
trăm sao buồn
Của
mưa trên sân…
Ôi
lòng buồn chưa !
Đêm
sa xuống gần.
Biết
sao nói năng.
Nhớ
chi bâng khuâng.
Cửa
theo gió rình;
Vườn
cau nước dâng.
Mưa
rơi đều đều
Trên
từng ngói kêu,
Trên
tầng ngói vang…
Lệ
rơi muôn hàng.
Còn
về thể Vè thì rất hiếm. Chỉ tìm thấy một bài của Lưu Trọng Lư:
LẠI
NHỚ
Hôm
nay lại nhớ bần thần,
Nhìn
đám mây chiều lại nhớ Vân.
Này
mây hỡi ! Mây chiều hỡi !
Dừng
lại đây, chờ ta với,
Theo
dấu chim xanh
Rẽ
lối trời tình
Cậy
cùng làn gió
Tìm
nơi Vân ở,
Vượt
mấy rừng cây,
Bay
qua chùa Thầy
Đến
nơi thôn nhỏ,
Ngừng
bên cửa sổ
Chờ
lúc nàng vén mành thưa
Ngang
trời ta đổ trận mưa…
Nhưng
bài thơ không thuần một thể.
Thời
Hậu Chiến, trên báo chí thấy thường đăng nhiều bài tứ ngôn đáng yêu. Như bài
TRĂNG VÀNG của C.T. làm theo thể Kinh Thi:
Trăng
vàng long lanh
Ngủ
trong hồ xanh,
Em
liền vốc nước
Gởi
vào tay anh,
Cho
đêm thêm mộng,
Cho
xuân thêm tình.
Anh
nắm tay lại,
Mong
cầm trăng mãi
Trong
niềm yêu đương,
Trong
đời văn chương.
Cho
thơ thêm trái,
Cho
lòng thêm hương…
Nước
bỗng rời ta,
Trăng
liền theo nước,
Trăng
liền theo mây…
Nhìn
trăng nhìn nước,
Nhớ
thương vơi đầy.
Bùi
ngùi mây nước
Cỏ
sương xuân gầy.
Ôi
! Lòng cỏ sương,
Đừng
sầu đừng thương.
Dù
trong mây nước,
Trăng
vàng còn gương,
Trăng
vàng còn rạng,
Trong
niềm yêu đương,
Trong
đời văn chương.
Và
bài DẠ LÝ HƯƠNG của M.H. làm theo thể vè:
Ngập
ngừng dưới nguyệt,
Khép
nép trong sương,
Cành
Dạ lý hương,
Nở
dần cánh tuyết.
Long
lanh ánh nguyệt
Xuống
đọng cùng sương,
Thành
giọt kim cương…
Bồi
hồi ý gió:
Từng
giọt trăng nhỏ
Từng
giọt thiên hương
Thành
giọt văn chương
Ngát
lòng thi sỹ
Ôm
thu nằm nghỉ
Dưới
cành Dạ hương.
Những
bài này cũng những bài của các bậc đàn anh thời Tiền Chiến chứng tỏ rằng thể
thơ tứ ngôn, nếu ra công trau dồi sẽ sản xuất ra nhiều giai phẩm như các thể
thơ khác.
[1] Vàng Sao là một tập
văn xuôi. Bài này nằm trên bài văn xuôi, và bài văn xuôi gián tiếp giải nghĩa
bài thơ.
Trong sách không để dấu chấm câu,
cũng không có ngang nối. Thơ Chế Lan Viên rất phức tạp. Lời thơ ngó giản dị
song nếu thấy dễ đọc qua thì không thấy được chân tướng của tác giả.