Đọc
bài VỊNH NÚI DỤC THÚY của Nguyễn Đỉnh Giác, tôi liên tưởng đến bài VỊNH HỒ HOÀN
KIẾM của Ý Viên Hoàng Cảnh Tuân:
Bóng
tháp lô nhô lớp sóng cồn
Nhịp
cầu nho nhỏ ghếch sườn non
Nước
trong như vẫn tăm thần kiếm
Đường
rộng còn trơ dấu pháp môn
Kim
cổ treo chung tranh thủy mặc
Tang
thương chớp nhoáng bóng hoàng hôn
Nghìn
thu suy thịnh gương còn đó
Coi
thử vầng trăng khuyết lại tròn.
Bút
pháp và khẩu khí họ Hoàng thật giống họ Nguyễn. Đọc thơ biết rõ hai tác giả là
người khoáng đạt khẳng khái, học rộng, tài cao.
Câu:
Kim
cổ treo chung tranh thủy mặc
Tang
thương chớp nhoáng bóng hoàng hôn.
Thật
tinh diệu. Lời thơ trác luyện nhưng tự nhiên, tứ thơ bao la man mác. Lòng người
đọc thơ bồi hồi như trông thấy cảnh biến đổi của cuộc đời theo bóng chiều vàng
hiển hiện trên nước mây bảng lảng…
Đem
so cùng câu:
Bóng
mây thấp thoáng hồn Diên Hạc
Vách
đá lờ mờ nét Phạm Trương.
thì
một bên là Chiêu Quân sang Hồ Địa, một bên là Huyền Trân vào Chiêm Thành. Nét
buồn trong vẻ đẹp, vẻ đẹp trong sắc buồn, muốn thưởng thức phải tự mình nhìn,
chớ nói không cùng, tả không xiết.
Những
câu thơ bất hủ của bà Huyện Thanh Quan:
Chín
tầng sen rớt hơi hương ngự
Năm
thức mây phong nếp áo chầu
Sóng
lớp phế hưng coi đã rộn
Chuông
hồi kim cổ lắng càng mau.
Nếu
đem đặt một bên hai câu kia, thật khó mà phân bá trọng. Rất hận là không đọc được
nhiều thơ của họ Nguyễn họ Hoàng, không được biết rõ tiểu sử của họ Nguyễn họ
Hoàng, để nói được nhiều khen được nhiều cho thỏa hồn thơ.
Để
giúp bạn đọc chưa được thấy hồ Hoàn Kiếm, chưa được biết rõ về hồ Hoàn Kiếm, nhận
thức đầy đủ cái hay cái đẹp trong bài thơ cúa Ý Viên, xin nói qua về sự tích và
phong cảnh hồ Hoàn Kiếm.
Hồ
ở giữa thành phố Hà Nội. Trước kia gọi là Vọng Hồ. Vua Lê Thái Tổ mới đổi tên
Hoàn Kiếm.
Truyền
rằng: Sau khi đánh đuổi được quân Minh, xây vững nền độc lập cho Tổ quốc, vua
Lê Thái Tổ ngự thuyền chơi trên hồ, chợt thấy một con rùa to lớn nổi lên mặt nước.
Nhà vua rút kiếm ra đâm thì rùa liền đớp lấy kiếm lặn mất. Thanh kiếm ấy nhà
vua đã bắt được trước khi khởi nghĩa, và đã dùng để dẹp quân xâm lăng. Nước đã
yên nên Trời sai thần qui đến đòi lại kiếm. Trả kiếm trên hồ, nên nhà vua mới đặt
tên hồ là Hoàn Kiếm.
Giữa
hồ có một ngọn cổ tháp tục gọi là tháp Rùa xây trên một nấm gò nhỏ gọi là gò
Con Qui. Phải chăng tháp ấy xây để thờ rùa thần đã nổi lên đòi là gương thần?
Quanh
hồ, ở phía đông nam có tháp Báo Thiên, di tích của chùa Quan Thượng. Ở phía
Tây, có đền thờ và tượng vua Lê Thái Tổ.
Ở
phía đông bắc có cổng đền Ngọc Sơn, hai bên cột gạch có khắc nhiều câu đối cổ.
Vào khỏi cổng, ở phía trái có một nổng gò nhỏ đắp bằng những tảng đá vụn. Trên
gò xây một ngọn tháp, trên tháp có một ngọn bút chữ nho bằng đá to lớn. Do đó
tháp gọi là Tháp Bút. Vào sâu chút nữa thì có một cái đài trên có một nghiên mực
bằng đá. Đó là Nghiên Đài.
Qua
khỏi Nghiên Đài thì đến một cái cầu gỗ sơn đỏ, gọi là cầu Thê Húc, bắt từ bờ hồ
sang nổng gò Ngọc Sơn ở giữa hồ. Trên gò có chùa Ngọc Sơn ẩn hiện trong bóng
cây xanh và soi hình xuống nước. Đền nầy xây từ đời Trần. Trong đền thờ đức
Quan Đế và đức Trần Hưng Đạo. Đến đời Thiệu Trị một nhóm thi sỹ làm thêm một nếp
đền nữa thờ đức Văn Xương.
Phong
cảnh thanh tú. Tao nhân mặc khách xưa nay thường đến ngâm vịnh. Nhưng bên thơ
Quốc âm, xuất sắc chỉ có bài của Ý Viên.
Trong
bài THĂNG LÒNG THÀNH của Đông Hồ, đoạn đầu nói về hồ Hoàn Kiếm:
Bão
táp tơi bời trời cố quốc
Gió
mưa ủ rũ đất danh đô
Tiêu
điều cỏ lấp hoa Long Đỗ [1]
Lạnh
lẽo trăng soi nước Kiếm Hồ
Bút
tháp viết trời xanh chữ hận
Nghiễn
đài tràn mực đậm màu thu
Cầu
Thê húc thẹn son xưa nhạt
Đình
Trấn Ba khoe phấn mới tô [2]
Tháp
đảo chơ vơ rùa nhớ kiếm
Tượng
vườn chót vót đá mong vua [3]
Báo
thiên rêu phủ hoang sơ tháp
Núi
Ngọc cây quanh ẩn ước chùa…
Lời
thơ đẹp, tình hoài cổ chứa chan. Đông Hồ đưa hầu hết những cổ tích của hồ vào
văn chương. Và mỗi cảnh mang một mảnh lòng của tác giả, tha thiết như nhau, đậm
đà in nhau, người đọc khó nhận biết ý tác giả nằm ở chỗ nào. Nếu Đông Hồ làm
vua, thì nơi hậu cung nhất định êm vui, vì tình chia được đều đặn. Như thế,
công bằng thật. Song nghĩ kỹ công mà bất công. Vì nơi tam cung lục viện lẽ nào
lại không có một Bao Tự, một Đắc Kỷ, hay một Tây Thi, một Dương Quí Phi? Đối với
kẻ quốc sắc thiên hương mà tình kính yêu cũng ngang với một mỹ nhân thường, thì
chẳng những không công mà còn không minh nữa. [4]
Lưu
Mộng Đắc đời Đường làm bài KIM LĂNG HOÀI CỔ:
Vương Tuấn lâu thuyền hạ Ích Châu
Kim Lăng vượng khí ám nhiên thâu
Thiên tầm thiết luyện trầm giang để
Nhất phiến hàng phiên xuất Thạch Đầu
Nhân thế kỷ hồi thương vãng sự
San hình y cựu chẩm hàn lưu
Tức kim tứ hải vi gia nhật
Cố lũy tiêu tiêu lộ địch thu
Tạm
dịch:
Xuống
Ích Châu thuyền lầu Vương Tuấn
Trời
Kim Lăng khí vượng ngầm thâu
Nghìn
tầm dây thiết chìm sâu
Cờ
hàng một lá Thạch Đầu treo cao
Thương
thế sự trải bao chìm nổi
Vẫn
lạnh lùng non gồi nước xưa
Bắc
Nam nay một cõi bờ
Đìu
hiu lũy cổ bơ phờ lau thu.
Tiền
Giải chỉ dùng tích Vương Tuấn là tướng nước Ngụy đem thủy binh xuống Ích Châu,
phá tan dây xích sắt giăng dưới sông, khiến binh nước Ngô không chống nổi phải
dựng cờ hàng nơi Thạch thành. Còn hâu giải thì toàn thị không miêu [5].
Bạch Lạc Thiên khen:
-
Đã lấy được hạt châu trong hàm con ly rồi thì vây vảy còn lại đều vô dụng. [6]
Tùy
Viên tán thưởng:
-
Thật là tri ngôn. Nếu chẳng thế thì điển cố đất Kim Lăng há phải một việc Vương
Tuấn mà thôi, và trong bụng Lưu công há chỉ có một điển ấy. [7]
Có
lẽ Ý Viên Hoàng Cảnh Tuân đã học theo cổ nhân.
[1] Long Đỗ: Thần Long
Đỗ. Truyền rằng ở Tây Hồ xưa kia giữa hồ có nùi đá nhỏ. Trên núi có hồ chín
đuôi nhiễu hại dân chúng. Thần Long Đỗ tâu lên Thượng Đế. Đế sai Long quân đánh
giết. Núi liền sụt thành đàm. Theo Tây Hồ Chí thì Tây Hồ thời cổ thuộc làng
Long Đỗ. Hoa Long Đỗ tức hoa sen, vì Tây Hồ mọc nhiều sen.
[2] Đình Trấn Ba: một
cảnh tân tạo ở cạnh hồ Hoàn Kiếm.
[3] Vườn tượng: vườn có
đền thờ và tượng vua Lê.
[4] Bài này viết lúc Đông
Hồ chưa qui thần, cậy chỗ tình thân nên hí lộng. Nay không muốn sửa lại vì sợ
mất tự nhiên.
[5] Không miêu: Tả trống,
không dựa vào một sự kiện lịch sử nào cả, chỉ lấy ý mình mà diễn tả ra.
[6] Nguyên văn: Dĩ thám
ly châu, sở dư lân giáp vô dụng.
[7] Tùy Viên Thi Thoại,
đoạn nói về thơ Vịnh cổ.