Phù
Cát có nhiều tay hay chữ. Những khoa thi ở Bình Định, Phù Cát đã mấy lần chiếm
thủ khoa. Lại có người không thi đậu chi cả mà tiếng nổi từ xưa, mãi nay còn
vang vọng.
Đó
là kỳ sỹ PHẠM TRƯỜNG PHÁT.
Kỳ
sỹ trước ở thôn Chánh Mẫn sau dời sang Đại Hữu.
Người
đồng thời cùng NGUYỄN BÁ HUÂN và cùng họ Nguyễn nổi tiếng là cuồng chữ, tục gọi
là Bình Định song cuồng.
Khoa
nào hai cụ cũng đi thi, nhưng không lều chõng, không giấy bút. Vào trường thi
thì thẳng đến thập đạo lãnh giấy bút ngồi làm văn.
Cụ
Nguyễn thì bầu đựng nước chứa đầy rượu. Hễ làm được một câu hay thì thưởng một chén,
thưởng mãi đến say vùi… [1]. Còn cụ Phạm
thì đầu quấn khăn trắng ràng rịt dọc ngang đến mấy bận. Hỏi lý do. Đáp:
-
Hay chữ quá sợ rủi nổ đầu. Ngồi nơi thập đạo, chẳng may não văng lây chữ cho
quan trường uổng, nên phải đề phòng.
Bút
giấy vào tay thì viết thao thao bất tuyệt. Viết đã, ngừng đọc lại, cao hứng lấy
bút khuyên:
-
Để quan trường khuyên uổng.
Rồi
cáo bệnh bỏ ra.
Cụ
Phạm cũng như cụ Nguyễn đi thi từ ngày trường thi mở tại Bình Định.
Trường
thi Bình Định mở năm Tự Đức thứ tư (1851), mở cho các tỉnh từ Quảng Nghĩa vào đến
Bình Thuận.
Khoa
đầu tiên là khoa Nhâm Tý (1852). Người Quảng Nghĩa dựt thủ khoa. Nên có câu:
Tiếc
công Bình Định xây thành
Để
cho Quảng Nghĩa vô giành thủ khoa.
Nhưng
đến khoa sau là khoa Ất Mão (1855), rồi tiếp hai khoa nữa là khoa Mậu Ngọ
(1858) và khoa Tân Dậu (1861) ngôi thủ khoa đều vào tay người Bình Định. Nên lại
có câu:
Tiếc
công Quảng Nghĩa đường xa
Để
cho Bình Định thủ khoa ba lần.
Tuy
thủ khoa ba lần liên tiếp vào tay người Bình Định, nhưng sỹ tử Quảng Nghĩa
không phục, nên sau khi yết bảng, thường tìm cách hạ thể giá vị thủ khoa.
Một
lần, trong một quán nước, một tân khoa Quảng Nghĩa gặp vị thủ khoa Bình Định là
Phan Võ Hoành người Phù Cát, liền buông lời thách thức. Nhân trong quán có
trang thờ bà Cửu Thiên Huyền Nữ, phía trước dán câu đối:
Trạc trạc khuyết linh
Dương dương tại thượng.
Thầy
tân khoa Quảng Nghĩa bèn ra đối, thách vị tân thủ khoa Bình Định đối:
Trạc
trạc khuyết linh,
Anh
thấy em xinh, dương dương hồ tại thượng.
Người
ra đối mượn cảnh trước mắt, lại mượn chữ có sẵn ghép lại thành câu. Câu đối
khúc mắc ở những điểm đó. Vị thủ khoa chưa kịp cấu tứ, thì một người Bình Định
ngồi gần đó, đứng lên thưa:
-
Tôi là một tên thi hỏng. Nhưng thấy vế đối ra kia quá tầm thường, không xứng để
quan thủ khoa đối. Nên xin cho phép tôi đối thế.
Đoạn
bảo chủ quán đêm rượu và thức nhấm lên để trợ hứng. Chủ quán liền đi lấy rượu
và gọi vói xuống bếp bảo vợ đem thức ăn lên. Người vợ dạ một tiếng lớn. Tiếng dạ
vừa dứt, thì người Bình Định liền đối ngay:
Cấp
cấp bất hạ,
Chồng
kêu vợ dạ, đản đản kỳ nhiên tai.
Ai
nấy đều thất kinh!
Người
Bình Định đó không ai khác hơn là PHẠM TRƯỚNG PHÁT mà thầy tân khoa Quảng Nghĩa
đã từng nghe danh nhưng chưa biết mặt.
Thơ
văn của cụ, bên chữ Hán cũng như bên Quốc âm, làm đâu bỏ đó, chớ không bao giờ
chép lại. Vì vậy chỉ còn truyền được một bài:
CÁ
CHẬU CHIM LỒNG
Chim
thời quen núi cá quen sông
Lúng
túng vào ra chậu với lồng
Khó
vẫy khó vùng trong nước túng
Khôn
bay khôn liệng giữa trời không
Trông
chừng biển bắc tung đuôi ngạc
Ngắm
vọi non nam chớp cánh hồng
Lồng
chậu một mai thân thoát khỏi
Chim
trời nên phụng cá nên rồng.
Vị
phụ lão tiền bối ở thôn Phú Phong quận Bình Khê, là Chuyết Nhân tiên sinh cho
biết rằng bài này cụ Phạm sáng tác sau khi phong trào Cần Vương Bình Định bị dứt.
Cụ cùng các thân hào nhân sỹ ứng nghĩa đều bị bắt giam. Ở trong ngục, để khiển
hoài, cụ cùng các đồng chí làm nhiều bài khẳng khái. Bài này được nhiều người
thuộc nên được lưu truyền. Sau khi được trả tự do, cụ về nhà được ít lâu thì mất,
mất vì uất hận không diệt được thù cứu được nước.
[1] Đã nói ở đoạn trước
rồi.