Những
người thích thơ xưa không mấy ai không thuộc hoặc không nghe biết bài thơ sau
đây:
|
Xe
ngựa lao xao giữa cõi trần
Biết
ai thiên tử biết ai thần
Nhạc
thiều tấu dứt khôn trông phụng [1]
Sử
Lỗ tu rồi uổng khóc lân [2]
Mỏi
mắt Hy Di trời ngũ quý [3]
Nhọc
lòng Gia Cát đất Tam Phân [4]
Thôi
thôi đã vậy thôi đành vậy
Nhờ
lượng cao dày cứu lấy dân.
Các
nhà làm sách, người thì bảo của Nguyễn Đình Chiểu ở trong Nam, người thì cãi là
của Phạm Như Xương miền Trung. Bảo là của cụ Nguyễn thì như Lãng Nhân là một,
và trong Giai Thoại Làng Nho, mệnh đề là “Mang tật mù”. Bảo là của ông Phạm thì
như lão tiền bối Phan Khôi trong Chương Dân Thi Thoại và lấy đề là “Quốc biến
năm Ất Dậu”.
Bài
trong Chương Dân Thi Thoại nhớ chừng [5]
không khác bài tôi chép. Bài trong Giai Thoại Làng Nho thì có nhiều chỗ sai
thù:
Nhạc
Thiều tiếng dứt khôn trông phụng
Sách
Lỗ biên rồi khó thấy lân
Khỏe
mắt Hy Di trời Ngũ Quý
Mỏi
lòng Gia Cát đất Tam Phân
Công
danh chi nữa! Ăn rồi ngủ
Mặc
lượng cao dày xử với dân. [6]
Riêng
tôi thì từ trước tới nay, vẫn nghe các bậc tiền bối truyền là của Hoàng giáp Phạm
Như Xương, và chính là lời than cho hoàn cảnh xã hội từ 1885 trở về sau, thời kỳ
mà “chính giữa Đồng Khánh hai đầu Hàm Nghi”.
Không
biết chắc tác giả là ai, nhưng vì là một bài thơ nói về thời cuộc - thời cuối
triều Tự Đức mà trong Nam cũng không khác gì ở Trung ở Bắc bao nhiêu - nên ai
đã đọc qua lịch sử cận đại đã biết qua những điển cố dùng trong thơ, thì hiểu
rõ được ý tứ trong toàn bài.
Bài
thơ dùng nhiều điển cố. Không phải để khoe khoang chữ nghĩa, vì hoặc cụ Nguyễn
Đình Chiểu, hoặc ông Phạm Như Xương, kẻ làm thầy trong một xứ, kẻ đậu hoàng
giáp, quốc dân có ai lại không biết mình hay chữ, cần gì phải khoe. Dùng điển
thường là để có thể nói được nhiều trong khuôn khổ chật hẹp của Đường luật, và
như trường hợp bài này, để diện mục bớt phơi bày hầu tránh đám khuyển ưng trong
buổi phụng hoàng kỳ lân không xuống núi.
Cũng
mục đích “che mắt thế gian”, một người ở vùng Nam, Nghĩa, Bình, Phú, đã làm
bài:
VỊNH
LỤT
Mưa
từng chặp gió từng hồi
Bốn
phía non sông ngập cả rồi!
Lũ
kiến bất tài theo bọt tấp
Đám
riều vô dụng kết bè trôi [7]
Cheo
leo rừng rậm nghe chim gáy
Lỏm
xỏm giường cao thấy chó ngồi
Nỡ
để dân đen chìm đắm mãi
Nào
vua Hạ Võ ở đâu? Ôi! [8]
Bài
này làm lúc vua Hàm Nghi chưa bị bắt, vua Đồng Khánh vừa lên ngôi, chiếu Cần
Vương từ rừng xanh đưa xuống làm sôi động lòng sỹ phu yêu nước từ Bắc vào Nam.
Biết
được điểm đó thì thấy rõ cặp luận nói gì và cặp trạng ám chỉ những ai.
Đám
nắm quyền sanh sát lúc bấy giờ dù có bắt được tác giả cũng không thể làm tội được.
Bài
này cũng như bài trên kia, không biết được tác giả nhưng biết được thời kỳ sáng
tác, nên dễ nhận được ý tứ trên hàng chữ, giữa hai hàng chữ.
Cũng
không biết rõ tác giả là ai, bài:
THAN
THỜI LOẠN:
Lửa
hồng từ dậy mái thành đô
Đòi
chốn lầm than cảnh được thua
Xanh
biếc thú quê người ẩn dật
Bạc
đen đường thế khách bôn xu
Suy
tường mỗi mỗi đau lòng trí
Tính
quẩn trần trần nát dạ ngu
Muốn
tới Vỵ Xuyên mà hỏi Lã [9]
Rằng
Thương xưa cũng thế này ru?
Truyền
rằng đây là tình trạng xã hội thời Lê mạt, sau khi đám kiêu binh làm loạn trong
triều đường.
Có
sách chép là thơ của Nguyễn Hữu Chỉnh. Nhưng không lấy gì làm chắc. Và cũng như
hai bài trên kia, tác giả có biết rõ được càng tốt, không biết được cũng không ảnh
hưởng gì đến sự nhận thức nội dung bài thơ.
Về
mặt văn chương, bài này vừa cổ kính vừa tự nhiên. Rõ là một gốc tùng già đứng sừng
sững trên sườn non. Ý cũng rất hàm súc. Nhưng không có những nét đặc sắc làm
cho người đọc thấy rõ được những khác biệt của thời loạn tác giả muốn tả với những
thời loạn khác. Do đó bài này nói về thời loạn thời Lê mạt cũng được mà nói về
thời loạn thời Pháp chiếm Kinh Đô Huế cũng cứ được. Cho nên so về mặt ý tứ thì
bài Vịnh Lụt trổi hơn bài này và bài “Xe ngựa lao xao…” bởi bài “Xe ngựa lao
xao…” cũng không có nét độc đáo.
Những
bài thơ như những bài trên thường gọi là thơ thời thế.
Và
có thể kết luận:
-
Về thơ thời thế, biết được tác giả càng tốt, không biết được cũng không sao. Điều
cần thiết là phải rõ thời kỳ sáng tác.
Có
những bài thơ tình, không cần biết đến tác giả cũng không cần biết thời kỳ sáng
tác, mà vẫn nhận thức đầy đủ nội dung, vì tình ý trong thơ không có gì bí ẩn, độc
đáo. Như bài sau đây:
KÝ
NỘI
Con
tạo ghen ai những quấy rầy
Quan
hà muôn dặm kẻ riêng tây
Gương
thiềm ngắm bóng năm hầu nửa [10]
Thư
nhạn mong tin tháng đã đầy [11]
Xuân
vắng vườn đào màu phấn nhạt
Thu
qua bờ liễu vóc sương gầy
Chung
tình hai chữ khen ai đặt
Một
giấc phần du tỉnh lại say. [12]
Văn
chương diễm lệ, phảng phất giọng thơ Đường. Nhưng không làm cho người đọc phải
cảm xúc, phải nghĩ ngợi. Vì tình cảnh trong thơ là tình thông thường, cảnh phổ
biến, người nào cũng có, thời nào cũng có, và nơi nào cũng có cả. So với bài Ký
Nội của cụ Phan Thanh Giản [13],
thì bài này văn đẹp hơn nhưng ý không thâm tình không hậu bằng.
Bài
cụ Phan đọc lên như uống trà Cam Khổ, nước đã qua khỏi cổ từ lâu mà hương còn
thoang thoảng thơm, vị còn ngon ngót đắng. Còn đọc bài này thì chẳng khác uống
coca-cola, còn uống còn thấy ngọt, uống xong không còn chút dư vị dư hương.
Nghĩa
là thơ cụ Phan cảm lòng người sâu đậm hơn.
Cho
nên cổ nhân luận thơ rằng:
-
Thi chi hậu tại ý bất tại từ, thi chi hùng tại khí bất tại cú, thi chi
linh tại không bất tại xảo, thi chi đạm tại diệu bất tại thiển. [14]
Bài Ký Nội trên đây được truyền là nhờ từ chương.
Và
những thơ như thế thuộc về hàng hạ thừa.
[1] Vua Thuấn soạn khúc
nhạc Tiêu Thiều xong, tấu lên, chim phụng nghe tưởng đồng loại gáy liền bay
đến. Cho nên có câu: “Tiêu Thiều cửu thành, phụng hoàng lai nghi”.
[2] Người nước Lỗ săn
được con lân, đức Khổng Tử khóc rằng thời thạnh trị không còn trở lại nữa, bèn
đóng cửa viết sách Xuân Thu (Sách Xuân Thu thường gọi là Lỗ sử). Cho nên có
câu: Lỗ Tây thú hoạch lân, Khổng Tử tác Xuân Thu.
[3] Hy Di là Trần Đoàn
thấy đời loạn lạc, nằm ngủ trên núi Ngọa Sơn cho đến lúc Triệu Khuông Dẫn dẹp
xong loạn dựng nên nhà Tống.
Đời
Ngũ Quý, cũng gọi là Ngũ Đại (907-960) gồm năm nhà nối tiếp nhau cai trị Trung
Quốc là Lương Đường Tấn Hớn Chu. Cứ nhà
này làm vua được ít lâu thì bị nhà khác lật đổ… Trong nước không mấy lúc được
yên vui. (213-280)
[4] Gia Cát Lượng tức
Khổng Minh - Đất Tam Phân tức là thời Tam Quốc (213-280) Trung Quốc chia làm ba
nước là Ngụy Thục Ngô. Khổng Minh giúp Thục hết lòng nhưng không dựng lại nhà
Hán nổi. Đất Tam Phân đây là ám chỉ ba kỳ của Việt Nam.
[5] Nhớ chừng vì không
tìm được tập Chương Dân Thi Thoại để xem lại.
[6] Phan Chương Dân tiên
sinh cũng như hầu hết các vị túc nho ở Trung Việt đều bảo bài “xe ngựa lao
xao…” là của Hoàng giáp Phạm Như Xương. Lãng Nhân cùng một ít nhà viết sách
trong Nam tin là của Nguyễn Đình Chiểu vì có những chữ “Không trông, khó thấy,
khỏe mắt” làm bằng chứng.
[7] Có người đọc là: “Lũ
… hì hụp lội, đám … bập bềnh trôi”.
[8] Ông Võ trị thủy có
công, vua Thuấn nhường ngôi, lập nên nhà Hạ, nên gọi là Hạ Võ. (Bài này kẻ thì
bảo của Lê Trung Đình, người bảo của Trần Quí Cáp).
[9] Lã tức Lã Vọng tức là
Khương Tử Nha ngồi câu nơi sông Vỵ. Văn Vương đem xe bồ luân đến rước về làm
quân sư. Nhờ tài của Lã Vọng mà trừ được nạn vua Trụ của nhà Thương, lập nên
nhà Châu thạnh trị.
[10] Gương thiềm: Mặt
trăng - Trên cung trăng có con thiềm thừ, tức cóc, ở. Do đó gọi mặt trăng là
gương thiềm.
[11] Thư nhạn: Tô Võ bị
Hung Nô đày lên núi tuyết chăn dê, bắt được chim nhạn, cột thư nơi chân, nhạn
bay sang Nam, người Hán bắt được đem trình lên vua… Do đó mà có tiếng thư nhạn,
tiếng nhạn mang thư.
[12] Phần du là hai thứ
cây thường trồng ở thôn quê. Chữ dùng để chỉ quê hương, cũng như chữ tử phần
trong Kiều:
Xót thay muôn dặm tử phần
Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa.
[13] Xem bài số 16 ở
trước.
[14] Thi hậu tại nơi ý chớ
không phải tại nơi lời, thi hùng tại nơi khí chớ không phải tại nơi câu, thi
linh động tại nơi không có chất tục chớ không phải tại khéo, thi thanh đạm tại
nơi tinh diệu chớ không phải vì thiển cận.