Có thể cùng Hồ
Xuân Hương chia non sông nước thơ Hàn luật để xưng bá xưng vương, là Phổ Chiêu
Thiền sư PHẠM ĐAN PHỤNG, tức Phạm Thái.
Nhà
sư đa tình nầy thi tài lỗi lạc. Trong kho tàng đất nước không dễ gì tìm thấy
nhiều trang thơ hay như hai bài:
ĐỀ
NGHĨA LƯ
Gió
thu hiu hắt khóm phương tùng
Thổi
rụng hàng châu ngoẹn má hồng
Cỏ
biếc chẳng treo hồn Sở trướng
Trúc
vàng thà điểm giọt Ngu cung
Hoa
kề cổ trủng đeo tình nặng
Trăng
rọi cô lư sáng tiếng trong
Dệt
gấm Thanh Nê câu nhất tiếu
Thêu
nền Thúy Ái chữ tam tùng.
II
Cuồn
cuộn xe mây kíp ruổi giong
Dễ
mà theo hỏi chốn hành tung
Khêu
sầu chín khúc chùng dây sắt
Diễn
thảm năm canh quạnh giọt đồng
Niêm
đảo mơ màng hồi thú cổ
Sinh
tiêu văng vẳng tiếng thiền chung
Huyền
thương ví chẳng thù hồng phấn
Chi
kiếp trần hoàn trả chửa xong !
NGHĨA
LƯ là ngôi nhà Long Cơ ở thủ tiết. Long Cơ là vợ thứ Thanh Xuyên hầu Trương
Đăng Thụ.
Hầu
là cựu thần nhà Lê, người làng Thanh Nê, trấn Sơn Nam, làm Hiệp trấn Lạng Sơn.
Vua Quang Trung dứt nhà Lê, hầu không tòng vong, ở lại làm quan cùng triều Tây
Sơn để làm nội ứng cho nghĩa binh Cần Vương đương ngấm ngầm lo việc khôi phục.
Việc lớn chưa thành, hầu bỗng nhiên thất lộc. Long Cơ đưa linh cữu về Thanh Nê.
Tang ma xong yên, lẻn ra bên mộ hầu, treo cổ tuẩn tiết. Nhưng người nhà cứu khỏi.
Cơ bèn cất một ngôi nhà bên mộ, một mình ở thờ chồng. Nghĩa Lư là ngôi nhà đó.
Thơ
đề Nghĩa Lư là để tặng Long Cơ.
Bài
thứ nhất nêu lòng tiết nghĩa của nàng.
Bài
thứ hai tả tình cảnh nàng lúc ở Nghĩa Lư thủ tiết.
Văn
chương tinh diệu. Âm tiết không hổ cùng người đời Thịnh Đường bên Trung Hoa và
bà Huyện Thanh Quan là người ra đời sau nhưng nổi danh trước.[1]
Song
nếu đem hai bài Thăng Long Thành Hoài Cổ và Chiều Hôm của bà Huyện Thanh Quan
so với hai bài đề Nghĩa Lư của Phổ Chiêu Thiền sư, thì chúng ta thấy hai bên
khác hẳn nhau:
Giọng
thơ bà Thanh Quan trầm và tròn, giọng thơ của Phổ Chiêu bổng và bén.
Điệu
thơ của bà Huyện hoãn như nước sông xuân chảy giữa bình nguyên, điệu thơ của Thiền sư cấp như nước suối vừa xuống
khỏi thác.
Đó
là về thanh vận.
Còn
về thần khí thì thơ Phổ Chiêu trong sáng và mạnh mẽ như thơ Hồ Xuân Hương.
Hai
bài đề Nghĩa Lư có phong thái một chàng tráng sỹ lịch sự và đa tình; lòng quyến
giai nhân mà chí theo mây nước, cắp gươm nhảy lên ngựa, hăng hái nhưng bùi
ngùi. Khách giai nhân có tài có học như Trương Quỳnh Như là em gái Thanh Xuyên
hầu, yêu thơ yêu luôn tác giả. Đó là thường tình trong thiên hạ, cổ kim đều có
chớ không riêng họ Trương. Và người được yêu, tuổi trẻ tài cao như Phạm Thái,
thấy người đem lòng yêu mình có tài có sắc, thì cũng tránh sao khỏi tình yêu.
Thế
là hai bên yêu nhau.
Ấy
là nhờ văn chương đưa duyên. Nhưng hẳn cũng nhờ hương hồn Thanh Xuyên hầu run rủi.
Vì một bên em còn một bên là đồng chí.
Và
đó là hội giai nhân tài tử, chớ không phải bước phá giới của nhà sư. Bởi Phạm
Thái không phải một Thiền sư chân tu, mà
là một nghĩa sỹ dòng thế phiệt. Phụ thân là Trạch Trung hầu quán xã Yên Thường,
phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc, tuẩn tiết về việc Cần Vương. Nối chí tiền nhân Phạm
Thái tập hợp các bầy tôi trung nhà Lê, lo toan việc báo phục. Hầu che tai mắt
bèn thế phát qui y và lấy đạo hiệu Phổ Chiêu Thiền sư. Rồi đi Nam về Bắc, đời
trải không biết bao nguy hiểm gian lao. Nhưng chí đã hẹn với quân vương, nên
lòng lúc nào cũng vững bền hăng hái.
Nhưng
từ khi theo linh cữu Thanh Xuyên hầu đến Thanh Nê gặp Trương Quỳnh Như, thì việc
khôi phục nhà Lê lần lần bị xao lãng. Không có gì lạ: Tình trường nhi nữ làm đoản
chí anh hùng. Huống hồ lúc bấy giờ vận số nhà Lê không còn phương cứu vãn. Ở
ngoài thì vua Lê Chiêu Thống bị vua tôi nhà Thanh bạc đãi, không kham nổi cực
nhục đã thăng hà.
Trong
nước các đồng chí, lớp bị giết, lớp bị bắt, lớp bị truy nã phải trốn tránh vào
những nơi hẻo lánh xa xôi… biển rộng chiếc thuyền nan, một tay chèo đương sao nổi
cùng gió to sóng cả ! Anh hùng buổi mạc lộ, không đắm mình vào nguồn ân ái để sống
cho trọn kiếp phù sinh thì còn biết làm gì nữa? Huống hồ Phạm Thái chẳng những
có tài kinh tế mà còn nặng nghiệp văn chương. Mà đối với văn chương, tình là
món cần thiết. Bởi thơ có tình mới hay, và tình càng si thơ càng diệu.
Nếu
vua Văn Vương nhà Châu không yêu da diết nàng Thái Tự, yêu đến nỗi chưa cầu được,
phải “ngộ mi tự bặc, triển chuyển phản trắc” [2],
thì làm gì có Thiên Quan Thư ba chương đứng đầu bộ Kinh Thi của Trung Quốc. Nếu
không có những cuộc ái ân giữa nam và nữ, thì làm gì có thơ Quốc Phong là phần
lớn của bộ Kinh Thi, và làm gì có những câu ca dao trên đất nước Việt Nam mà
giá trị không kém thơ Quốc Phong?
Trường
hợp Phạm Thái cũng thế.
Để
tỏ tình cùng Trương Quỳnh Như, Phạm Thái có bài:
CẦM
THÁO
Ai
lên tử các thanh vân
Hỏi
thăm ả Tố chiều xuân thế nào
Cầm
âm một khúc gởi trao
Cậy
lòng dì gió đưa vào hương cung.
Oanh
én véo von gọi khách
Cỏ
hoa hớn hở mừng ai
Gió
xuân hây hẩy giục đưa người
Dễ
khiến lòng tơ bối rối !
Thấp
thoáng thoi oanh dệt liễu
Thung
thăng phấn bướm dồi mai
Vũ
Lăng xa diễn biết bao vời
Khôn
hỏi Đào Nguyên đâu tá.
Khôn
hỏi Đào Nguyên đâu tá
Dòng
Ngự câu gieo lá tình thi
May
thay một hội tương kỳ
Đã
bên tình phận lại bề phong lưu
Câu
hảo cừu đợi người thục nữ
Năm
mây phong hai chữ đồng tâm
Đón
xuân nhắn với tri âm
Tính
tình xin tỏ tiếng lòng nầy cho.
Rắp
hẹn hò ngồi hoa đứng tuyết
Lòng
còn e khôn biết nói năng…
Bây
giờ mượn gió cung Đằng
Vì
duyên xưa mối xích thằng lại đây.
Thơ
rằng:
Từ
chốn thềm cung trộm dấu hương
Dễ
xui tao khách mối sầu vương
Gió
thông reo rắc chong đèn oán
Trăng
hạnh chênh vênh rạng bóng dương
Nếu
đã tình duyên dun rủi phận
Thì
xin ân ái vẹn vuông đường
Phong
lưu đôi lứa đà ai dễ
Bụi
tục chi cho bợn lóa gương.
Bợn
trần chi để lóa gương
Tuyết
mai là tiết liễu dương ấy tình
Khổn
hoa vừa mãn phong thanh
Nức
gương kinh các nổi danh tao đàn
Trong
tình thú hồng nhan dễ mấy
Chốn
phòng trung trộm thấy phong quang
Xui
lòng du tử thêm càng…
Biết
bao giờ vẹn lửa hương ước nguyền?!
Tâm
sự gởi hoa tiên một bức
Từ
chương không sánh bậc hào hoa
Những
thì ân ái thế mà…
Tài
nương xin hãy xét ta chữ tình.
Bóng
quế mờ mờ trước nóc
Hơi
hương hây hẩy bên thềm
Ngón
cầm dìu dặt nhẫn thâu đêm
Văng vẳng khêu sầu dường điểm
Cành
tuyết ngoài thềm mới chớm
Chồi
hương bên cửa vừa cầm
Vườn
đào quạnh quẽ mượn ai tầm?
Mấy
bức gấm phong im ỉm.
Im
ỉm gấm phong mấy bức
Điểm
một ngày dằng dặc dường niên
Để
ai đưa đón cung tiên
Xếp
nghề vũ lại gác bên trướng tình
Mây
phủ vóc hình thương cẩu
Nguyệt
mờ ám ngọc vẻ ngọc thiềm
Bóng
đèn xanh thắm lọt năm đêm
Dò
dõi khắc sầu khôn điểm
Mấy
tiếng lầu hoa chợt lắng
Vài
phen ngấn mực còn cầm
Tuyết
lồng thôn lạnh biết đâu tầm?
Chín
khúc sầu trường im ỉm.
Im
ỉm sầu trường chín khúc
Mượn
tiêu cầm đỡ lúc tương tư
Cầm
sao thấy điệu ngẩn ngơ
Tình
ai luống để khách thơ thêm càng…!
Tình
nồng lời đẹp. Thể cách biệt lập. Không phải từ khúc, không phải trường đoản cú.
Ngó dường như thi ca liên hành, nhưng không phải thi ca liên hành. Đó là hợp những
thể ấy lại rồi biến chế thành cách điệu thích ứng theo trào lòng, theo nhịp bước
của con tim.
Bài
cầm tháo là một bài thơ tình diễm lệ, một áng văn chương hữu hạng trong làng
thơ Việt Nam cả cổ lẫn kim.
Phạm
Thái có bài thơ ĐỀ TRANH MỸ NHÂN, đọc xuôi là Hán Văn, đọc ngược là Quốc âm, mà
bài nôm lại là bài dịch nghĩa sít sao bài chữ:
Đọc
xuôi:
Thanh xuân tỏa liễu lãnh tiêu phòng
Cẩm trục đình châm ngại điểm trang
Thanh dạng đỗ liên phi phất lục
Đạm hi tạn cúc thác sơ hoàng
Tình si dị tố liêm biên nguyệt
Mộng xúc tằng liêu trướng đính sương
Tranh khúc cưỡng khiêu sầu mỗi bận
Oanh ca nhật vĩnh các tiêu hương.
Đọc
ngược:
Hương
tiêu gác vắng nhặt ca oanh
Bận
mối sầu khêu gượng khúc tranh
Sương
đỉnh trướng gieo từng giục mộng
Nguyệt
bên rèm tỏ dễ si tình
Vàng
thưa thớt cúc tan hơi đạm
Lục
phất phơ sen đọ dạng thanh
Trang
điểm ngại chăm dừng trục gấm
Phòng
tiêu lạnh lẽo khóa xuân xanh.
Bài
nầy cũng vì Trương Quỳnh Như mà có. Nếu Phạm Thái không say đắm tình duyên thì
đâu có những vần thơ hoa gấm ấy?
Riêng
tiếc tài tử giai nhân không mấy khi được thấy nhau đầu bạc! Phạm Trương vừa
quen biết nhau thì đã phải chia biệt nhau! Duyên cớ bởi vì đâu? Vì thân danh,
vì hoàn cảnh[3].
Khi ra đi, Phạm Thái có để lại cho Quỳnh Như một luật:
Đẩy
hoa đưa lá bởi tay trời
Nghĩ
lại tình duyên luống ngậm ngùi
Bắc
yến nam hồng thư mấy bức
Đông
đào tây liễu khách đôi nơi
Lửa
ân khôn nhúm nhen mà cháy
Bể
ái hằng khơi tát chẳng vơi
Đèn
nguyệt trong xanh mây chẳng bợn
Mong
soi xét thấu tấm lòng ai.
Sau
khi xa cách người yêu, Trương Quỳnh Như bị mẫu thân ép gả về nơi quyền quí nọ.
Không làm sao được nàng đành lấy cái chết tạ tình lang. Hay tin Phạm Thái khóc:
Xanh
kia cao thẳm mấy từng khơi
Nỡ
để duyên ai luống thiệt thòi
Nhớ
đốt lò vàng hương nhạt khói
Sầu
châm chén ngọc rượu không hơi
Lầu
tây nguyệt gác mây lồng bóng
Ải
bắc hồng sang bể tuyệt vời
Một
khối chung tình tan mấy mảnh
Suối
vàng ai có thấu lòng ai?!
II
Oanh
ru bên trướng giấc hoa nồng
Chợt
tỉnh hồn mai nhớ lại mong
Non
nước mơ màng chừng chỉ lữ
Mây
mưa phảng phất đỉnh Vu phong
Quyên
về viễn phố hoa rầu rĩ
Nhạn
tếch Hành Dương nguyệt não nùng
Đàn
tiếng ly loan tay ngại gảy
Lấy
ai lần gỡ mối sầu xong !
Việc
lớn không thành, người yêu lại khuất, Phạm Thái trở thành người chán đời, ngày
ngày đắm mình trong rượu.
Một
hôm đến mộ Quỳnh Như làm văn tế điếu. Xong rồi đi thẳng không “dễ mà theo dõi dấu
hành tung”! Và trước khi xa lánh cõi trần, Phạm có soạn thiên tình sử của mình
bằng thơ lục bát, nhan đề là SƠ KÍNH TÂN TRANG, để lại.[4]
Nghĩ
như Phạm Thái, một trang anh tuấn nặng chí cần vương,
Bốn
phương hồ thỉ đãy vàng
Nhảy
tầng lãng đảo bắt thang vân cù
Tu
mi tỏ mặt trượng phu
Đem
trung hiếu để trả thù non sông…
Thế
mà xong rồi một kiếp, vòng nhân gian chỉ còn để lại một pho tình sử và một ít
thơ văn !
Nhưng
một ít văn chương để lại so cùng sự nghiệp vương bá gẫm mà hơn:
Đền
đài vua Sở gò xanh
Trời
trăng từ phú Khuất Bình treo cao.
Mà
những áng văn chương kia cũng nhờ cuộc tình duyên mà có. Cho nên bảo rằng đối với
khách phong tao si tình là điều cần thiết, không phải là ngoa ngôn.
Và
xem những áng văn chương còn sót lại, thì tài làm thơ của Phạm Thái thật không
nhượng Hồ Xuân Hương.
Thơ
của họ Phạm, bài nào cũng nồng cũng đẹp, song đều một đúc mà nên, ngấn vết công
phu không tìm thấy. Cũng như thơ họ Hồ, thơ họ Phạm do bộng trời mà đến, gió cuốn
mây tuôn. Nhưng phải nhượng họ Hồ, vì họ Phạm còn mượn Hán văn, còn dùng điển cố.
Thơ họ Hồ hoàn toàn Việt Nam; thỉnh thoảng có dùng đôi ba chữ Nho thì những chữ
ấy cũng đã thành người Minh Hương nhập tịch Việt Nam trên chín đời chỉ còn dấu
tích Trung Hoa ở đôi mắt xếch. Song đến cách hợp tự (mariage des mots) thì họ Hồ
phải phục họ Phạm tài tình hơn mình. Ví như:
Cỏ
biếc chẳng treo hồn Sở trướng
Trúc
vàng thà điểm giọt Ngu cung.
Vế
trên dùng điển Ngu Cơ tuẩn tiết nơi Cai Hạ. Vế dưới dùng điển Nga Hoàng Nữ Anh
khóc vua Thuấn nơi bến sông Tương.
Điển
dùng không có chi mới lạ. Chỉ mới lạ trong cách hợp tự luyện cú, nhất là cách hợp
tự. Những chữ “hồn Sở trướng, giọt Ngu cung” bạo hết sức mà cũng hay hết sức!
Trong
bài “Đằng Vương Các tự” của Vương Bột có câu: “Lạc hà dữ cô vụ tề phi”. Lạc hà
là ráng chiều, cô vụ là con cò mồ côi. Ráng chiều và con cò mồ côi cùng bay với
nhau. Đó là “bất loại nhi loại” [5].
Cổ nhân khen là nghiên diệu. [6]
Trong
câu của Phạm Thái, hồn và trướng không đồng loại, giọt lệ và cung vua cũng
không đồng loại, bên làm xác bên làm hồn. “hồn Sở trướng, giọt Ngu cung”. Thành
ra trướng vua Sở có hồn, cung nhà Ngu có lệ! Thì cung kia trướng kia không còn
là vật vô tri vô giác, mà đã trở thành giống sinh động linh thiêng!
Không
đồng loại mà sánh đôi nhau như Cô vụ Lạc hà, người xưa đã cho là đẹp đẽ màu nhiệm,
huống hồ hợp nhau lại thành một giống nửa quỷ nửa người, như hồn Sở trướng giọt
Ngu cung, thì còn kỳ diệu tinh nghiên biết bao nhiêu!
Dùng
chữ hiểm quái và tinh diệu như thế không thấy trong thơ Hồ Xuân Hương, nhưng thấy
trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu:
Cầu
thệ thủy ngồi trơ cổ độ
Quán
thu phong đứng rũ tà huy.
và
trong Tần Cung Nữ Oán Bái Công Văn của Đặng Trần Thường:
Má
Lam điền dượi dượi chốn Quan Trung,
Nước
chảy hoa trôi bẽ bàng mấy phận.
Hai
áng văn kiệt tác ở thời Lê Mạt Nguyễn sơ, nghĩa là đồng thời hoặc sau Phạm Thái
ít lâu.
Sau
Phạm Thái chừng trăm năm có bài Hoài Cổ Ngâm của Tương An Quận Vương, trong có
câu:
Bốn
dây ứa máu tỳ bà
Bâng
khuâng trăng Hán phôi pha gió Hồ.
Cũng
là theo cách ghép chữ của họ Phạm. Kiều có câu:
Một
cung gió thảm mưa sầu
Bốn
dây giỏ máu năm đầu ngón tay.
Thật
đã hay. Song vừa ghé mắt đến câu của Tương An Quận Vương thì thấy câu Kiều đã
lui ra sau mấy bước. Vì sao vậy? Vì câu Kiều tả một cảnh thường, cảnh năm đầu
ngón tay giỏ máu. Câu của Tương An lại tạo ra một cảnh phi thường, cảnh bốn dây
tỳ ứa máu. [7]
Cũng
như câu “Bốn dây ứa máu tỳ bà”, hai câu:
Cỏ
biếc chẳng treo hồn Sở trướng
Trúc
vàng thà điểm giọt Ngu cung.
gợi
trong trí tưởng tượng nhiều hình ảnh lạ lùng: trướng vua Sở hiện hồn người, hồn
người treo phất phơ trên cỏ biếc; cung nhà Ngu hóa nước mắt, nước mắt điểm lác
đác trên trúc vàng! Nhưng những hình ảnh kia ở giữa những cảnh đẹp đẽ của trướng
hoa cỏ biếc, cung châu trúc vàng, nên không làm cho chúng ta rùng rợn bằng câu:
Nắm
xương dưới ván chau mày khóc
Hòn
máu trên tay mỉm miệng cười.
của
Hồ Xuân Hương.
Hãy
gác ý chính của câu thơ, ý quan phủ Vĩnh Tường vì thương con vợ góa mà chết
không đành đoạn, ý đứa con mới sanh không biết rằng mình mồ côi bố, trên môi
luôn luôn nở nụ cười tự nhiên. Gác những ý ấy lại một bên. Và cứ nghĩ nắm xương
dưới ván là nắm xương trắng thật, hòn máu trên tay là hòn máu đỏ thật. Rồi nhắm
mắt lại để xem những cảnh tượng diễn ra: nơi chiếc quan tài hiện lên một bộ
xương trắng phếu. Cảm cảnh tử biệt, bộ xương nhăn mặt chau mày, hu hu cất tiếng
khóc…; hòn máu nằm trên một bàn tay bên cạnh bị ảnh hưởng, vụt sanh miệng mắt,
nhìn quanh bốn phía, mỉm môi cười! Nếu cảnh tượng ấy diễn vào lúc đêm khuya,
thì trên thế gian này e không còn người cứng bóng vía!
Phê
bình Hồ Xuân Hương, Tản Đà tiên sinh bảo:
-
Thi trung hữu quỉ. [8]
Lời
này có thể dùng để phê bình hai câu “Nắm
xương… Hòn máu…” thì mới thật đích đáng.
Song
hai câu của Hồ Xuân Hương chỉ gợi nên những cảnh hãi hùng ở trước mắt. Hai câu
thơ của Phạm Thái, nếu để lòng đến những điển tích, thì ngoài những cảnh trước
mắt, còn hiện lên bao nhiêu cảnh của nghìn xưa:
Kìa
trong nơi trướng hổ, dưới bóng đèn khuya, Hạng anh hùng hàm én râu hùm ngồi đối
ẩm cùng Ngu mỹ nhân môi đào lưng liễu. Tư bề tiếng ca Sở làm dao động lòng
khách viễn chinh. Rượu ngà ngà say, anh hùng nhìn mỹ nhân mà ái ngại. Bỗng nhịp
án cất lời ca… Vừa ca vừa khóc, giọng bi tráng lâm li. Mỹ nhân bước ra trước mặt
anh hùng, rút gươm múa, vừa múa vừa ca, vừa ca vừa khóc. Điệu múa nhịp lời ca,
dòng lệ hòa dòng lệ… Tiếng ca dứt, gươm vút nhóa hàn quang: mỹ nhân gục dưới
chân anh hùng, máu thanh tuôn thành gò cỏ biếc… [9]
Nhưng
“Cỏ biếc chẳng treo hồn Sở trướng”, hai chữ “chẳng treo” làm tan mất gò cỏ biếc
bờ Ô giang [10],
và thay vào bờ trúc vàng trên dòng sông Tương cạnh sơn lăng vua Ngu Thuấn. Liền
đó hai bà hoàng hậu, má không phấn mà hồng, môi không son mà thắm, áo xiêm màu
trắng, tóc mây xõa dài, nương nhau đến vin trúc vàng mà khóc. Tiếng khóc nỉ
non. Nước mắt quyện máu hồng bay vướng vào bờ trúc, và từng giọt từng giọt,
thân trúc điểm thành hoa. Rồi chiều rồi mai…, giọt tương tư không ngớt… Trên bờ
sông Tương khóm này sang khóm khác, “trúc vàng thà điểm giọt Ngu cung”.
Một
câu thơ gợi bao nhiêu cảnh thơ!
Tâm
hồn người xem thơ sung dũ bao nhiêu thì cảnh nên thơ phong phú bấy nhiêu. Tả
không hết, nói không cùng. Muốn biết độ nóng lạnh của nước như sao, tưởng nên tự
mình thể nghiệm. Lời giảng giải chỉ là ngón tay trỏ mặt trăng.
Nhưng
xin nói thêm tí nữa:
Trong
câu thơ, còn một điểm đáng lưu ý: tác giả đã uốn điển tích theo ngọn bút tài
ba. Ngu Cơ vốn dùng lưỡi kiếm mà quyên sinh, Long Cơ lại dùng giải lụa mà tuẫn
tiết. Cái chết cùng một ý nghĩa như nhau, mà cách chết lại dùng hai phương tiện
khác biệt, dụng sự thế nào cho hợp tình hợp cảnh? Phạm Thái chỉ dùng một chữ
“treo” là “ổn định ngay được tình thế”. Điển tích đã không bị cắt xén chắp vá,
mà hiện trạng lại được diễn tả một cách sống động và trung thành. Những người
ưng “vạch lá tìm sâu” cũng không tìm ra sâu để mà bắt. Bởi chữ “treo” tuy riêng
nói về thắt cổ, song “treo hồn lên cỏ biếc” thì chết bằng kiếm hay chết bằng lụa
vẫn có thể “thực hiện” như nhau.
Chữ
TREO là một thần tự.
Chữ ĐIỂM cũng rất tài.
Đọc
“điểm giọt Ngu cung” chúng ta có ngay một ấn tượng thường xuyên liên tục, chúng
ta có cảm giác là giọt tương tư của giai nhân rơi nhẹ nhẹ từ từ, hết giọt này đến
giọt khác, không bao giờ ngớt, không bao giờ ngừng…, diệu nhưng bền, sưa nhưng
thấm.
Cách
hợp tự của Phạm Thái đã xảo diệu, cách luyện tự của Phạm Thái lại càng tinh vi.
Cú
pháp của Phạm Thái cũng đã đến mức tinh diệu. Những câu khổ cầu như “Cỏ biếc…
trúc vàng…”, mạn đề thuật ý như có thần trợ, khiến câu thơ tự nhiên, không tìm
thấy ngấn vết dụng xảo.
Hầu
hết tác phẩm của Phạm Thái đều như thế cả.
Cho
nên bảo thơ Phạm Thái cũng như thơ Hồ Xuân Hương thuộc về bộng trời là vậy đó.
Đó
là tài nghệ.
Còn
tâm hồn thì Phạm Thái là con người đa tình và phóng dật. Trước khi phong trào
lãng mạn của Tây phương tràn vào Việt Nam, thì không một thi gia nào tả tình
yêu đương của mình một cách trực tiếp và tả được tha thiết chân thành như Phạm
Thái. Tất cả đều mượn cảnh ngoài, mượn lời người khác để tả tình mình, vì cái
tôi ai nấy đều muốn tránh. Chỉ có Phạm Thái là “lạc thác bất ky”. [11]
Phạm
Thái đã dùng tình yêu đương làm nhân cho thơ cũng như Hồ Xuân Hương dùng “cái ấy”
làm nhụy.
Đó
là hai nhà thơ đã mạnh dạn tách riêng ra ngoài khuynh hướng cổ điển mà đời Lê mạt
vẫn còn theo.
Thơ
họ Hồ và thơ họ Phạm chẳng khác trái ngọt hoa thơ. Mỗi nhà có một phong vị. Xem
thơ họ Hồ được hưởng sự khoái trá của kẻ ăn trái chín. Xem thơ họ Phạm được hưởng
thú say sưa của người thưởng hoa tươi. Thú vị thật vô cùng nhưng không biết làm
sao tả cho tường tận!
Xem
hoa ăn trái cũng như nghe đàn, người thì nhiều, song người biết thưởng thức rất
ít. Cho nên khúc Dương Xuân Bạch Tuyết không được mấy lăm tri âm. Mà thơ họ Phạm
họ Hồ là những khúc Dương Xuân Bạch Tuyết. Thấy được gì nói ra nấy, tuy không đến
nỗi chú lùn xem hát, song cũng không hơn gì ngồi nơi nhà khách mà đoán những vật
quí nơi khuê phòng, hậu tẩm của bạn láng giềng thân yêu.
Còn
nhiều bảo vật trong hai kho tàng kia, mong gặp được nhà kỹ sư văn chương ra
công khám phá và khai thác.
[1] Phạm Thái sống vào khoảng
cuối thế kỷ XVIII, bà Thanh Quan sống vào khoảng cuối thế kỷ XIX, và từ ngày
chữ quốc ngữ được trọng dụng thì phần đông người chỉ biết ba Huyện chớ ít biết
Phổ Chiêu Thiền Sư. Quyển Tiêu Sơn tráng
sỹ của Khái Hưng không làm nổi bật tài văn chương của họ Phạm.
[2] Chữ trong Quan Thiên
thư, chương II, nghĩa là: thức ngủ đều nhớ nhung tơ tưởng, lăng qua lộn lại,
trăn trở không yên.
[4] Trong Tiêu Sơn Tráng
Sỹ chép rằng tập nầy làm để tỏ tình cùng trương Quỳnh Như lúc nàng còn sống.
Như theo tình tiết trong tập thì rõ là khúc đoạn trường làm để gởi tâm sự khi
người yêu đã mất.
[7] Thơ Pháp có câu: L’archet mord jusqu’au sang du
violon. Nếu Tương An sanh ở thế kỷ thứ XX này thì không khỏi bị những kẻ đa
nghi ngờ rằng du đạo. Thời gian xa cách không gian xa cách, mà tứ thơ in nhau.
Thú vị!
[8] Trong thơ có quỉ –
Lời nói trong một bài phê bình Hồ Xuân Hương đăng ở An Nam tạp chí.
[9] Hai bài ca của Hạng
Võ và Ngu Cơ trích đem vào. Chương 35 ở sau, nói về thơ Mai Xuân Thưởng.
[10] Tăng Tử Cố đời Tống
vịnh Ngu Cơ có câu:
Hương
hồn dạ trục kiếm quang hàn
Thanh huyết hóa vi nguyên thượng
thảo.
[11] Lạc thác hay Thác lạc
là phóng túng không kiềm chế. Lạc thác bất ky là muốn làm gì thì làm không câu
nệ gì hết.