Mùa Đông đối với
năm cũng như tuổi già đối với đời người. Cảnh trời thường gió mưa lạnh lẽo.
Trong mình người già cũng lạnh lẽo theo gió mưa. Già rồi chết cũng như hết năm
rồi Tết. Tết để qua năm mới. Chết để qua đời mới. Cho nên đám chết cũng như
ngày Tết phải cử hành theo nghi lễ, phải có liễn đối, đèn hương. Hai bên chỉ
khác nhau ở sắc thái.
|
Vì tuổi già và
gần hết năm có chỗ giống nhau, nên hôm nay thấy người ta rộn rịp sắm sửa để đưa
đám chết năm Ất Tỵ, tôi xin nói về thơ GIÀ cho “hợp thời trang”.
Trước hết xin
đưa ra một bài thơ già có tính cách chung cho mọi người: khóm róm, tai nặng,
mắt lờ, không thích chua, không thích béo. Bài thơ của cụ tú NGUYỄN KHUÊ, triều
Tự Đức:
Già
này cũng bởi lúc còn trai
Khóm
róm bao giờ dám trách ai
Béo
sợ ngây dầu không hảo mỡ
Chua
e nhăn mặt chẳng thèm xoài
Mắt
lờ chậm thấy ai ai mãi
Tai
nặng lâu nghe hữ hữ hoài
Tuy
vậy thấy già ai cũng ước
Sống
mà vô ích sống chi dai.
Lời tự nhiên,
lòng thản nhiên. Cặp luận tuyệt! Thật ra ông già trăm phần trăm. Chuyển kết
cũng thật hay. Nói rõ được tình đời. Khởi thừa cũng khéo. Nếu không có trai đâu
có già. Nếu trai biết luyện thần dưỡng khí thì già đâu đến nỗi phải khóm róm
phều phào.
Ông già trong
bài thơ của cụ tú là một ông già bình dân, giản dị, thật thà. Ấy vì cụ Tú, sau
bao nhiêu năm lận đận nơi trường ốc, cụ về nhà sống với cảnh điền viên, “thú
quê thuần hoặc bén mùi”. Nhưng cũng lắm người đỗ đạc cao, làm quan lớn, đến lúc
về già, cũng rất hiền lành giản phác, như cụ Tam Nguyên Yên Đỗ. Cụ có nhiều bài
thơ già, bài sau đây hay nhất: Đọc lên chúng ta thấy rõ tánh tình và tâm sự của
cụ lúc tuổi già:
Năm
nay tuổi đã bảy mươi tư,
Rằng
lão rằng quan tớ cũng ừ.
Lúc
hứng đánh thêm ba chén rượu,
Ngồi
buồn ngâm láo ít câu thơ.
Bạn
già lớp trước nay còn mấy,
Việc
cả mười phần chín chẳng như.
Cũng
muốn sống thêm dăm tuổi nữa,
Thử
xem mãi mãi thế này ư ?!
Mới nghe qua thì
dường như tác giả thản nhiên trước cuộc đời, riêng lấy thơ rượu mà vui với tuổi
già. Nhưng một mình ngồi ngâm thơ, một mình ngồi uống rượu, nhìn cảnh ngày nay,
nghĩ chuyện đời xưa…, tất cả đều bất như ý, mười phần đến chín! Còn gì buồn
bằng!
Bạn
già lớp trước nay còn mấy
Nói lên cảnh cô
độc, vô tri kỷ!
Việc
cả mười phần chín chẳng như.
Nói lên nỗi lòng
thất vọng, lòng đau đớn! Việc cả đây là việc quốc gia đại sự. Làm trai đứng
trước cảnh nước nhà nghiêng ngửa mà không làm được gì để cứu vãn tình thế, đành
khoanh tay ngồi ngó cho đến chết! Người có tâm huyết ai khỏi não lòng! Buồn nhưng
vẫn còn nuôi hy vọng rằng sẽ có kẻ cứu lấy non sông. Vì truyền thống anh dũng
của giống nòi, lẽ đâu con cháu đành chịu nhục như thế này mãi? Tác giả thất
vọng nhưng chưa tuyệt vọng. Chưa tuyệt vọng nhưng hy vọng quá mong manh. Hy
vọng trong nghi ngờ:
Thử
xem mãi mãi thế này ư ?!
Bài thơ đi lần
lần từ chỗ gần như thản nhiên đến chỗ xốn xang khó chịu! Nỗi buồn không nước
mắt, nằm lắng dưới đáy lòng, thỉnh thoảng phát hiện bằng một cái chép miệng rồi
theo sau một cái thở dài trong nơi vắng vẻ đìu hiu. Một nỗi buồn không não nuột
nhưng thấm thía.
Nghĩ tội nghiệp
những ông già đã nặng tuổi trời mà còn nặng tình đất nước! Nặng tình đất nước
mà không làm gì được cho đất nước, chỉ đanh đau đớn ngấm ngầm!
Nhưng cũng có
nhiều ông già sống trong thời Tổ Quốc không còn độc lập, nghĩa là đồng thời
cùng cụ Nguyễn Khuyến, tức là lúc người Pháp đã xâm chiếm đất nước Việt Nam, mà
không có tấm lòng thương đau của Nguyễn Khuyến. Như tác giả bài sau đây là một:
Tuổi
tác nay đà ngoại sáu mươi,
Hơn
ai chẳng dám dám thua ai.
Hai
bàn tay trắng làm nên thế,
Một
tấm lòng son ở với đời.
Lấy
phước mà đong lo cũng mệt,
Có
duyên thời gặp dễ như chơi.
Xoay
vần máy tạo coi chừng lẹ,
Hết
đó rồi đây cũng tới nơi.
Tác giả có phần
tự đắc, nhưng tự đắc một cách hiền lành. Mà tự đắc cũng phải, vì tác giả - cụ
Trần Chí Tín - là một vị quan lớn, tự lực mình mà dựng nên sự nghiệp vẻ vang.
Tuy tự đắc nhưng đối với đời, tác giả vẫn giữ vững “tấm lòng son”, vì biết rằng
mình được thế, một phần lớn cũng nhờ duyên nhờ phước, chớ chẳng phải chỉ do tài
năng. Huống hồ đời người có bao lắm. Cái chết đến hết người này tới người khác,
hết đó rồi tới đây nay mai. Mà sau khi nhắm mắt rồi thì kẻ bị gậy, người cân
đai cũng đều chung một hòn đất.
Quan niệm như
thế nên tác giả thản nhiên trước cuộc đời. Kể cũng khỏe, kể cũng sướng. Khỏe
sướng hơn cụ Tam Nguyên Yên Đỗ nhiều.
Nhưng chưa sướng
bằng tác giả bài sau đây:
HƯU QUAN LỤC THẬP TỰ THỌ
Rằng
nay là phải hẳn xưa nhầm,
Xe
ngựa đường xa cát bụi lầm.
Ba
luống cúc tùng nhờ quả phúc,
Sáu
mươi mày tóc chửa hoa râm
Hầu
non bốn chị sinh năm một,
Bạn
cũ mười anh chết đến năm.
Lộc
nước còn nhiều hưu bỗng dưỡng
Muốn
như Bành Tổ tám trăm năm.
Không biết ông
hưu quan này tên gì ở đời nào mà có một cuộc đời đầy đủ đến thế? Đã làm quan
lớn, lại dồi dào sức khỏe để trọn hưởng cái thú giàu sang. Sống trong cảnh
nhung lụa thế này, thì sống như Bành Tổ cũng nên sống. Nhưng sướng đến đâu rồi
cũng chẳng được gì đâu, “chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì”. Sống làm sao để
khi chết rồi còn để lại một cái gì cho hậu thế, ít ra cũng để lại một chút lòng
son, như cụ Tam Nguyên Yên Đỗ mà:
Năm
canh máu chảy đêm hè vắng
Muôn
dặm hồn tan bóng nguyệt mờ.
Hoặc
như cụ tú Nguyễn Khuê đã từng đứt ruột khi nghe tiếng kèn Tây thổi vang trong
đất nước:
Mây
mưa lợt đợt gió hiu hiu,
Một
tiếng tò loe ruột chín chiều !
Cây
cỏ đòi nơi buồn dượi dượi,
Non
sông bốn mặt vắng thiu thiu !
Ải
lang mờ mịt trời un khói,
Chằm
nhạn lênh đênh nước tản bèo !
Ướm
hỏi bao giờ bờ cõi cũ
Ngậm
cơm vỗ bụng thấy trời Nghiêu.
Đứng trước cảnh
đau lòng của đất nước mà không làm gì được, nên cụ mới thốt ra câu:
Sống
mà vô ích sống chi dai !
Các bài thơ kể
trên sản xuất trước đây từ năm mươi năm trở lên. Tôi dám quả quyết như vậy đã
được nghe từ thuở nhỏ. Bây giờ chúng ta hãy nghe một bài “Tự thuật” của một ông
lão 80 tuổi làm năm Bính Thân 1956, nghĩa là cách đây chưa bao lâu:
Ngựa
tre rong ruổi thú reo cười,
Nay
đã thành ông cụ tám mươi.
Còn
lắm tỉnh say theo cuộc thế,
Trải
bao chua ngọt với mùi đời.
Lựa
vai quan lão thêm nghề hát,
Cắp
bút thầy đồ sẵn chuyện chơi.
Già
hẳn kém duyên chưa kém nợ,
Nợ
thi nợ tửu vướng nhiều nơi.
Tác giả là cụ
Ưng Bình Thúc Giạ Thị.
Lời thơ không
gọt đẽo, tự nhiên như lời nói chuyện. Ý thơ không nhồi nặn, vị thơ không nồng
nàn. Những tâm hồn chỉ ưa những gì say sưa, đắm đuối…, những gì khích thích
mãnh liệt…, đọc phải, nhất định chê là nhạt nhẽo, vô vị. Nhưng chúng ta thử
“chíp chắp” xem: Có bòn hòn lẫn lộn trong ấy. Nhất là ở cặp luận, vừa tả hoàn
cảnh của tác giả, vừa tả hoàn cảnh của xã hội. Chỉ là trò hề, chỉ là chuyện
chơi, không có gì là chính đáng, không có gì thiết thực, để đem lợi ích cho
nước cho dân. Lấy thơ lấy rượu làm bạn với tuổi già, nhưng cũng chả có gì thanh
thú, chẳng có gì là cao nhã, chẳng qua là một món nợ đời nữa đó mà thôi. Một
lần, tôi đưa vị hòn hòn này ra trình cụ, cụ cười ngâm:
Biết
ai tâm sự gởi mình,
Mua
tơ thêu lấy tượng Bình Nguyên Quân.
Xem thơ, nhất là
thơ của các ông già, chúng ta phải tìm “cái
vị ở ngoài cái vị” phải lắng cái “tiếng ở ngoài đường tơ”,
thì mới thấy thú.