Thể Đường luật là
thể thơ được điển chế nghiêm
túc. Có người bảo rằng chính tánh cách nghiêm túc ấy đã làm chết hồn thơ. Nói
thế là nhìn vẽ căn cỗi của cây cổ thọ sống đã trên nghìn thu rồi mà nói, chớ
không xét đến những thời thạnh vượng của cây và mục đích cùng thái độ của người
trồng cây.
|
Người đời Đường
đặt ra luật thơ cốt để giúp thi nhân những phương tiện ổn định cho dễ điều
khiển nguồn cảm hứng, cho dễ phô diễn tứ thơ thành những câu nhịp nhàng đẹp đẽ.
Phương tiện ấy không có giá trị tuyệt đối, không phải bất khả xâm phạm. Nhưng
khi thấy có phần trở ngại, thấy không cần thiết, thì thi nhân có quyền nới rộng
quy tắc hoặt vứt bỏ luật lệ, để giữ trọn sanh khí của nội dung.
Thơ luật đời
Đường, đời Tống, đời Thanh có nhiều giai tác là do thi nhân đối với luật thơ có
một quan niệm đứng đắn, quan niệm đạt lý.
Nhưng một khi bị
đem dùng vào việc thi cử thì luật thơ trở thành nguyên tắc cứng rắn, sỹ tử phải
tuân thủ triệt để. Đề thi vào tay, sỹ tử dồn sức bình sanh để đi cho sát đầu
đề, theo cho đúng thi giáo, tránh cho khỏi lỗi về bát bệnh, ngũ kỵ, tứ bất nhập
cách [1]:
Cảm hứng phải hy sinh cho luật lệ, hình thức lấn át nội dung.
Ngày xưa mười
người học chữ, hết tám chín người học để đi thi, cho nên học làm thơ phải học
theo lối cử nghiệp. Do đó tánh làm nô lệ cho luật thơ trở thành thói quen, và
óc cố chấp niêm luật truyền đời này sang đời nọ, cho đến khi khoa cử đã bỏ mà
di hại vẫn còn!
Chẳng
những thế các thi công còn bày ra nhiều các tiểu xảo kỳ lạ làm cho luật thơ mỗi
ngày mỗi thêm phiền phức. Những người học thơ, nhiều người vô ý thức lầm tưởng
những tiểu xảo là tinh túy bèn cho ra công tập luyện và hớn hở khoe khéo khoe
tài! Cây cổ thọ sống trên nghìn năm, nhựa sống đã cạn mà còn bị những tay thợ
làm khéo làm khôn uốn rễ chạm cành cho thành rồng thành phụng, thì làm sao sanh
thêm lộc, nảy thêm chồi, mà chẳng mỗi ngày một lụn bại.
Đó
hồn thơ bị khô héo tàn rụi là do chỗ vô ý thức của những người không biết rõ
hoặc hiểu lầm công dụng của luật thơ chớ đâu phải tại tánh cách nghiêm túc của
luật.
Bảo
luật thơ làm chết hồn thơ thật chẳng khác bảo đạo Khổng đã làm cho người Á Đông
hèn yếu lạc hậu.
Ở đời
không có gì tuyệt đối và trong cái tốt có cái xấu thì trong cái dở vẫn có cái
hay. Những tiểu xảo các thi công đưa vào thơ làm cho hình thức của luật thơ
Đường trở nên tinh vi tiêm tế. Nhờ đó mà những tay thợ khéo đã sáng tạo ra một
số thơ mà nét chạm trổ nét thêu thùa lên đến mức tuyệt mỹ. Như những bài thơ
của vua Tự Đức: Đọc được sáu cách, đọc xuôi là chữ Hán đọc ngược là chữ Nôm mà
bài Nôm lại là bài dịch nghĩa bài chữ… [2]
Cụ
Nguyễn Đức Nhuận, một chí sỹ trong đảng Cần Vương tỉnh Bình Định, lúc thiếu
thời có làm bài thơ “chê gái lấy chồng già” bộ vận Từ Thứ Qui Tào của Tôn Thọ Tường, và dùng trong mỗi
câu 1 vị thuốc Bắc, lại thêm câu trên có tên một giống cầm, câu dưới tên một
giống thú (Từ Thứ vận, thượng cầm hạ
thú, nhất cú nhất vị dược):
Chim quyên bả
đậu nhánh choi voi
Mang bạch đầu
ông nỏ mặn mòi
Phụng ước thung
dung ăn trái trúc
Thỏ đâu cam toại
ấp nhành còi.
Lương kiều thước
bắt so le nhịp,
Sơn dác ngựa đua
hụt chạc roi
Loan chạ từ cô đừng chuyện ấy
Kén lừa quân tử
giá ngàn thoi. [3]
Dưới triều Minh Mạng, nhân đọc
tập DANH VIÊN của nhà Thanh, thấy vua ra đề XUÂN KHUÊ cho các cử tử vào thi
Đình, đã hạn 5 vận KHÊ TÊ KÊ TẾ ĐỀ lại bắt phải dùng vào bài thơ 18 chữ số Nhất,
Nhị.... THẬP, Bách, Thiên, Vạn, Bán, Lưỡng, Xong, Trương, Xích, TÙNG THIỆN
VƯƠNG bèn sọan 1 luật để so tài cùng người Trung Hoa:
Song tương lưỡng liễu đản tiền khê
Bách trượng du ti cửu mạch tê
Thiên lý âm thư không ức nhạn
Bán song tình tự quyện văn kê
Thất tương cẩm tự tài thùy ký
Lục bức châu liêm quyển vị tề.
Nhị thập tứ kiều tam ngũ dạ
Nhất thanh xích bát vạn hàng đề.
Trong
một luật thơ chỉ có 56 chữ mà đã bị cấm cái hết 5 chữ vần, 18 chữ hạn, thi nhân
chỉ còn được tự do sử dụng 33 chữ của mình. Phần nguyên tắc của thơ trói buộc,
phần điều kiện của người ra thơ bó buộc mà Tùng Thiện Vương vẫn thành công mỹ
mãn. Đề không bị lạc, phép không bị phạm, mà lời thơ lại đẹp, tình thơ lại
nồng. Nếu không phải bậc tài cao học
rộng thì dễ gì hươi bút được thung dung.
Xin
tạm dịch:
Khe trong liễu
lục phủ đôi bờ,
Chín khúc đường
quanh trăm trượng tơ..
Tình tự nửa song
gà thổn thức,
Âm thư nghìn dặm
nhạn thờ ơ.
Bảy từ chũ gấm
phong im ỉm,
Sáu bức rèm châu thả lững lờ.
Hăm bốn nhịp cầu
canh khắc lụn, [4]
Địch dài một
tiếng lệ tuôn mưa.
Dù gắng
sức đến đâu cũng không lột được hết tinh thần của bài nguyên tác và hội đủ 23
chữ hạn chữ vần. Thế mới biết cổ nhân tài bộ biết bao nhiêu!
Khách
làng thơ Hàn luật sau nầy cũng thường mượn đề tài ấy và cách chơi chữ ấy để
thách thức nhau. Cụ Phan Mạnh Danh có một bài thơ lấy vận “hờ” và 19 chữ thuộc
về số mục (Một …, Mươi, Trăm, Ngàn Vạn, Nửa, Đôi, Cặp, Tấc, Thước, Trượng) được
tán thưởng:
XUÂN KHUÊ
Một mong hai đợi
bốn năm chờ
Mười hẹn đêm
trăng chín hững hờ [5]
Nửa gối canh ba
dầu cháy lụn
Tấc mây sáu cánh
nhạn tin thưa
Trăm lần cặp mắt
đôi hàng lệ
Chín khúc bên
dòng vạn mối tơ
Ngàn
trượng thành sầu đo thước khó
Biếng
đem bảy vẻ dệt nên thơ.
Truyền rằng một
hôm cụ Dương Khuê cùng đôi ông bạn vào chơi nơi quán bán trầu bánh. Thấy cô
quán có duyên, các ông bạn thách nhau làm thơ. Nhân cô quán tên là CHẤN nên
buộc phải có tên mỗi cung bát quái trong mỗi câu. Bài của cụ Dương xuất sắc
nhất:
Bên đông bên đoài chẳng hề đoái
Khen cho cô Chấn thực là quái.
Ra vào cấn chỉ hệt lưng ong,
Ăn nói khôn ngoan hơn mép giải.
Tốn nhượng cho hay lúc chửa chồng,
Khảm kha cũng thể thì con gái.
Xin đừng càn dở với người ta,
Kẻo nữa ly ti mà mắc dại.
Kể
cũng đã giỏi. Nhưng chưa bằng bài GHẸO CÔ ĐOÀI của cụ Tam Nguyên Tôn Thất Mỹ:
tám quẻ sắp xếp theo thứ tự trước sau, mỗi câu còn đèo thêm một thứ bánh:
Vẻ ngọc càng say rượu ít nồng [6]
Khen ai vòng khảm đúc hình dung.
Cấn nơi quán khách e dầy dụa,
Chấn bức màn hoa những ước mong.
Chiếc lá tốn công dòng bích thủy, [7]
Dấu bèo ly hận ngọn đông phong.
Nhắm em xem chợ tình khôn hỏi,
Ngoảnh lại non đoài ngọn ráng hồng.
Bài
cụ Tôn hơn bài cụ Dương chẳng những về lối chơi chữ, mà còn hơn cả về mặt văn
chương tình tứ. Bài cụ Dương quê kịch. Bài cụ Tôn thanh tao. Cô Chấn bị khách
thơ nói mỉa đôi chút. Cô Đoài được khách thơ ca ngợi đủ điều. Nhưng dù bị mỉa
mai dù được khen ngợi, chăc hai cô điều hờ hừng với văn chương.
Lối
chơi chữ là ngón sở trường của cụ Tam Xuyên. Cụ làm dễ dàng như nói chuyện.
Một
hôm vào chơi nhà người quen thấy cô con gái đương tập đánh vần tập Quốc ngữ, cụ
bèn đọc bỡn một luật dùng bốn dấu huyền sắc nặng hỏi và những cái ê t e x f đ y
m vào trong thơ:
Những ngậm ngùi xuân dáng ủ ê
Vì ai khăng khít nỗi riêng tê
Huyền vi máy tạo e lời lậu,
Sắc sảo câu thơ ít chữ đề.
Nặng gánh tương tư ngày ép uổng
Hỏi nơi kỳ ngộ dạ đê mê.
Trăm năm cốt cách còn y cũ,
Giấy rách khuyên em giữ lấy lề.
Gặp
bao chướng ngại mà ngòi bút không chút gượng gạo ngập ngừng. Văn chương tự
nhiên và gồm đủ thanh sắc vị. Thật tài tình! Từ trước đến nay, về lối chơi chữ
ai cũng nhượng cụ Tam Xuyên.
Ngoài
những lối trên, còn nào:
+
Song thanh, như:
Mây xây núi túi chim tìm tổ
Khách các đường trường nốt cột lau
Lỏng khỏng đào cao nương phậu xấu
Lơ thơ liễu yếu chị đàu đau.
(Tuy Lý Vương)
+
Song Điệp, như:
Ngất ngất ngơ ngơ cũng nực cười!
Căm căm cụi cụi có hơn ai?
Nay còn chị chị anh anh đó,
Mai đã ông ông mụ mụ rồi!
Có có không không lo chết khiếp,
Khôn khôn dại dại ngoẳn xong đời.
Chi bằng láo láo lơ lơ vậy,
Ngủ ngủ ăn ăn nói chuyện chơi.
+ Vỹ
Tam Thanh, như:
Tiếng gà bên gối tẻ tè te
Bóng ác trông ra hé hẽ hè
Non một chồng cao chon chót vót
Hoa năm săc nở lỏe lòe loe
Chim tình bằng hữu kìa kia kĩa
Ong nghĩa quân thần nhẹ nhẻ nhe
Dạnh lợi khôn màng ti tí tị,
Ngủ chừ chưa đậy khỏe khòe khoe.
+
Chuyển vỹ Hồi Văn, như:
Ta ở nhà ta ta nhớ mi,
Nhớ mi nên vội bước ra đi.
Không đi mi hỏi sao không đến,
Có đến my hỏi đến làm chi?
Làm chi ta đã làm chi được,
Làm được ta làm chán vạn khi ..
(Nguyễn Công Trứ)
Cùng thế chi hơn bản có tiền
Có tiền thì đặng sướng như tiên
Như tiên mới dễ lên làm chủ
Làm chủ lo chi chẳng có quyền.
Có quyền muốn thế là nên thế
Nên thế cầu duyên ắt thắm duyên.
Thắm duyên thêm lắm quyền cùng thế,
Cùng thế chi hơn bản có tiền.
(Tôn Thất Mỹ)
vân
vân ……
Gần
đây cụ NGUYỄN KHOA VY ở Cựu Thần Kinh cũng nổi tiếng về lối chơi chữ. Ngoài
những lối đã có sẵn, như mấy lối thượng dẫn mà cụ rất sở trường, cụ còn bày ra
nhiều lối mới. Như: [10]
+ Nói
lái:
- Nhắc bạn luống thương tình nhạn bắc
- Bảy cụ bóp lầm cô bụ cảy [12]
Ba trò ăn xả thịt bò tra.
+
Dùng nhiều mẫu tự La tinh vào mỗi câu thơ:
- Tin nhạn mong chờ e ít hát (EXH)
Gối loan trằn trọc ép anh ca (FNK)
+ Tất
cả những chữ trong bài thơ phải phát âm giống nhau, đánh vần in nhau:
- Cui cút cùng cây cỏ cận kề
Cung cầm cứng cỏi cũng cò kè
Cuộc cờ cao kém cơn cười cợt
Cái cuốc cô ca cứ cặp kè.
(Vui
thú điền viên)
- Chạy chữa chai chân chẳng chịu chừa!
Chín chiều chua chát chán chê chưa?
Cha chài chú chớp chơi chung chạ,
Chẳng chính chuyên chi chớ chực chờ.
(Trách
bạn đa tình)
Cụ
còn nhiều lối khác nữa, không nhớ hết. Ngoài những bài những câu trên, còn nhớ
được bài Thập Nhị Thời Thần, là nói về 12 con giáp, song không được kêu tên mà
chỉ được dùng tục ngữ liên hệ để ám chỉ:
Tha ra cắp lấy bộ loay quay [13]
Đào lỗ không nên tiếng cả bầy [14]
Lạc ngõ theo đuôi đâu ngại bước [15]
Cả gan bóp dái chẳng nhờn tay [16]
Cám treo nhịn đói, nhăn răng chịu [17]
Cối quẩn ăn no, ỉa miễu đầy [18]
Cá gáy hóa ra, chi có cánh, [19]
Mồng năm lẹt đẹt trốn đi ngay. [20]
Đây
là một cuộn hàng do nhiều mảnh lụa mảnh gấm chắp nối lại, là một vuông gỗ do
nhiều mảnh nu mảnh trắc đóng ghép lại. Nó không biểu thị được một cái gì ở
trong tâm hồn hay ở ngoài cảnh vật. Nhưng trông vui mắt thích lòng.
Nghĩa
là bài nầy chỉ có giá trị về hình thức.
Mà về
mặt hình thức bài này cũng không được hoàn hảo như những bài trên kia. Câu 5
câu 6 câu 7 để lộ đường ghép nối quá rõ rệt. Đó là do con giáp lên đến số 12 mà
bài thơ chỉ có 8 câu 7 chữ. Để cho chúng có đủ chỗ đứng, tác giả phải “ép duyên
vợ chồng” , phải buộc hai “ứng cử viên không đồng tư tưởng, không đồng chủ
trương đường lối” đứng chung một “liên danh”, đứng chung cho đắc cử, và hễ đắc
cử là đạt mục đích, còn hậu quả ra sao không cần nhĩ đến.
Đó là
khi để dấu phết ở giữa câu cho dễ phân định “quyền lợi”. Nếu bỏ dấu phết thì
nhất định độc giả hiểu sai ý tác giả một trăm phần trăm.
Đọc:
- Cám treo nhịn đói nhăn răng chịu,
Cối quẩn ăn no ỉa miễu đầy,
Đố ai
khỏi hiểu là ý nói: heo bị cám treo nên phải nhăn răng nhịn đói, và Gà quẩn cối
xay no rồi vào miễu ỉa đầy.
Đọc:
- Cá gáy hóa ra chi có cánh,
Đố ai
khỏi hiểu là ý nói: Vì rồng do cá chép hóa ra nên khi không có cánh.
Chớ
mấy ai ngờ heo lại đứng chung với khỉ, và heo nhịn đói, khỉ nhăn răng; mấy ai
ngờ gà đứng chung với dê, và gà quẩn cối xay,
dê no rồi vào miễu ỉa đầy.
Trong
tranh vẽ của người xưa, và trên sân khấu hát bội, rồng thường đi đôi với cọp.
Nhưng ở trong câu thơ chơi nghịch kia, không ai ngờ rồng cọp đứng chung nhưng
bất hòa, rồng cậy mình do cá chép sanh, cọp hằn học rằng mình không có cánh.
Đứng
về mặt làm văn làm thơ chân chính thì những điểm nói trên là những khuyết điểm.
Nhưng nói về mặt mua vui thì đó lại là ưu, vì sự hiểu lầm thường sanh thêm lý
thú, kẻ bàn qua người tán lại, phi phi thị thị, ngồi mà nghe vui thú biết bao.
Nói
tóm lại: lối chơi chữ thật chẳng khác lối uốn kiểng của khách phong lưu, lối
tỉa mức đu đủ… của các cô thiếu nữ của các bà nội trợ... đâu phải hoàn toàn vô
ích. Trong vườn mà có một vài chậu kiểng rồng uốn khúc phụng sè lông, trong
ngày lễ ngày tết mà có những dĩa mức hình hoa hường thì phi cầm tẩu thú…, thì
cảnh vườn cũng thêm duyên, cảnh vui càng thêm thắm, lòng người đối cảnh tất
cũng hưởng thêm thú vị hoặc ít hoặc nhiều.
Nhưng
không nên bỏ công sức bỏ thì giờ làm cái việc tuy không hoàn toàn vô ích nhưng
không mấy bổ ích đó. Cũng có làm mà cũng có chơi. Song thỉnh thoảng mới chơi
cho vui, chớ đừng la cà mà thêm lêu lỏng. Chúng ta nên để thì giờ để công sức
vào làm việc hàm dưỡng huân tập và đợi hứng khởi nguồn thơ… tức là chúng ta nên
lo uẩn nhưỡng tâm tư, chớ đừng chú tâm vào việc thôi xao từ điệu.
Chẳng
phải chỉ làm thơ theo thể Đường luật mới cần uẩn nhưỡng tâm tư, cũng chẳng phải
chỉ có người làm thơ theo thể Đường luật mới có thói quen lo thôi xao từ điệu
một cách quá đáng. Đó là điều cần thiết chung cho mọi nhà thơ của mọi trường
phái, và kia cũng là bệnh thông thường mà những người làm thơ cũng chưa đạt ý
hay mắc phải.
Vì
thơ tuy chia ra làm nhiều đường song vẫn chung một lý.
Nói
chuyện thơ chơi chữ, tôi nhớ lại một câu chuyện vui vui.
Nguyên
hai ông Hoàng Tùng Thiện và Tuy Lý có mỗi ông một câu lục bát “chữ đâu nghĩa
đó” được truyền tụng:
- Âm thầm bút chép nghiên mài
Luận bàn sử sách nhớ hoài tích xưa.
- Giữa song dựa ỷ chép thơ
Thân mình toan liệu lại nhờ ai thương. [21]
Có
nhiều người khen là “không ai làm nổi”. Anh Khương Hữu Dụng nghe khen quá mức,
nói:
-
Những lối tiểu xảo như thế có gì là khó. Chỉ có hoa tay.
-
Chắc là anh làm được? Thử cho xem.
Lúc
bấy giờ vào buổi tối, Khương quân đến chơi nhà một người bạn. Chủ khách ngồi
nói chuyện trên phản ngựa. Trong khi thách làm thơ thì có tiếng còi xe hỏa
huýt, Khương quân liền tức cảnh:
Phản săng ngồi lại đơ hai gối, (deux:
hai)
Xe lửa đi qua huýt tám giờ. (huit: tám)
Ai
cũng phục là giỏi.
Nhưng
đâu phải lúc nào cũng làm được nhanh được hay. Mà dù có làm được cũng không nên
làm.
Bởi,
như trên đã nói, những chậu kiểng uốn hình thú hình cầm. Không đến nỗi hoàn
toàn vô ích, nhưng không mấy bổ ích, phải để thì giờ để công sức trồng cây ăn
trái, trồng hoa có sắc hương. Đến thanh điệu là yếu tố cần thiết để biểu đạt đề
tài được lựa chọn cho thấu đáo, truyền đạt cảm hứng sang độc giả cho được sung
mãn, mà được yêu chuộng quá mức, còn bị Lý Thái Bạch chê là “thanh điệu bài ưu”
tức là “trò hề thanh điệu”, huống hồ những món tiểu xảo không cần thiết kia.
Cổ
nhân gọi những bài thơ nặng về chạm trổ hình thức là văn chương du hí. Chỉ
những người lấy món văn chưng làm món phấn sức tài ba trong nhất thời, những
người lấy món văn thơ làm tiêu khiển trong lúc trà dư tửu hậu. Mới ham thích
loại văn chương du hí. Còn những người lấy văn thơ làm lẽ sống, làm nơi ký thác
tâm sự, làm đường giải thoát tâm hồn, thì gặp cũng ngắm chơi cho vui chớ không
quan tâm chú ý. Đối với chúng không trọng cũng không khinh.
[1] Bát bệnh là: Bình
đầu, thượng vỹ, phong yêu, hạc tất, đại vận, tiểu vận, chánh nựu, bàng nựu.
Ngũ kỵ là: Cách nhược, tự tục, tài phù, lý
đoản, ý tạp.
Tứ bất nhập cách là: Khinh trọng bất đẳng,
dụng ý thái quá, chỉ sự bất thiệt, dụng ý thiêng khô.
Những điều này ở trong các sách dạy làm thơ
hiện hành đã nói rõ ràng. Ở đây nói chuyện thơ chớ không bày phép làm thơ nên
chỉ nói qua chớ không dám bàn kỹ.
[2] Đã nói rõ ở chương 17
về thơ vua Tự Đức.
[3] Đã nói rõ ở chương 35
về thơ Bình Định
[4] BỊ
CHÚ
NHỊ
THẬP TỨ KIỀU:
-Theo
sách Phương Dư Thắng Lãm thì ở phía Tây quận Giang Đô tỉnh Gia Tô có 24 chiếc
cầu thường lấy tên thành môn phường thị mà gọi. Cầu bắt từ đời nhà Tùy. Sau bị
hư sập nhiều nơi. Bùi Linh Khôn ra công tu bổ lại một số và đặt tên là Lương
Kiều.
-Theo
Dương Châu Họa Phỏng Lục thì ngày xưa tại trang viên hộ Ngô có một cái cầu bằng
đá kiến trúc đẹp đẽ tên là Hồng Kiều. Những khi trời trong trăng tỏ thường có
24 mỹ nhân đến thổi tiêu. Do đó mà cầu có tên nữa là Nhị Thập Tứ Kiều.
Một mong hai đợi bốn năm chờ
Mười hẹn, sao em
chín hững hờ.
Và
chú: “Bản nầy hơi khác với bản ông Phan Thế Roanh.
Trong
bản của Phan quân:
Một mong hai đợi bốn ba chờ
Mười hẹn đêm
trăng chín hững hờ.
Chúng
tôi chọn bản trên vì sau “Một mong hai đợi” thì “bốn năm chờ” theo đà tiệm tiến
có lý hơn là tiệm giảm như “bốn ba”. Vả lại “Mười hẹn sao em chín hững hờ” đỡ
gò bó hơn “Mười hẹn đêm trăng…”
Tôi
nhận thấy về câu nhất, Lãng Nhân luận đúng. Thêm nữa để chữ “năm” đã khỏi trùng
chữ ở câu ba, lại khỏi mất chữ trong 18 con số hạn định. Còn về câu thì xin bàn
về cùng ông bạn:
- Đề thơ là Xuất
Khuê thì ý thơ thuộc về nữ tính. Để khỏi lạc đề, tác giả phải mượn lời nữ nhân
mà phát tiết tình tự . Hai chữ “sao em” là ngôn ngữ của nam giới, đem vào sao
cho hợp cảnh hợp tình? Trái lại hai chữ “đêm trăng” dùng thật đắc địa. Vừa thêm
tình tứ cho chữ “mười hẹn hò” (hẹn hò dưới nguyệt, dưới nguyệt chén thề), vừa
thêm hình ảnh cho câu thơ, lại vừa làm đợt sóng để đưa dư âm xuống “ba canh” ở
dưới. Vì vậy tôi theo Lãng Nhân ở câu I và theo Phan Thế Roanh ở câu II.
[6] Từ Huế trở vào Nam,
những chữ có G và không có G ở đàng cuối đều đọc in như nhau. Cho nên tác giả
lầm lẫn chữ càn là quẻ càn với càng.
[7] Có người đọc là:
“Mang gói tốn công người lữ thứ”, Dấu bèo ly hận khách Tây Đông nhưng cả từ lẫn
ý không bằng câu “Chiếc lá…”.
[8] Cụ Phan Bội Châu rất
tán thưởng bài nầy. Cụ có họa vận, song không điệp tự được trọn bài như nguyên
xướng. Bài cụ Phan, tôi không thích nên không nhớ. Bây giờ nghĩ lại thật tiếc!
[9] Bài nầy, Hoàng Giáp
Đỗ Huy Liêu có họa, song chỉ lấy vận chớ không theo lối.
[10] Cụ Nguyễn Khoa Vy
hiệu Thảo Am, là một nhà Hán học kiêm Tây Học, vừa tạ thế vài năm nay.
Thơ cụ chưa xuất bản thành sách.
(Xem bài cố 63 ở sau)
[11] Tòan bài 8 câu, nhưng
chỉ nhớ cặp trạng.
[12] Chuyện có thật, nhưng
chỉ có hai câu.
[13] Chó tha ra, mèo cắp
lấy (tuất, mẹo)
[14] Chuột bầy đào không
nên lỗ (Tý).
[15] Lạc đàn theo chó lạc,
lạc ngõ theo trâu (sửu).
[16] Cả gan bóp dái ngựa
(Ngọ)
[17] Cám treo heo nhịn đói
(Hợi). Nhăn răng khỉ (Thân).
[18] Gà què ăn quẩn cối
xay (Dậu), Nuôi dê ỉa đầy miễu (Mùi).
[19] - Cá chép hóa rồng
(thìn). Cơ chi cọp có cánh (Dần).
[20] - Rắn trốn mồng năm.
(Tỵ)
những câu tục ngữ dùng trong bài,
có lắm câu không được phổ biến lắm.
[21] Âm nghĩa là thầm, Bút nghĩa là chép, nghiên
là nghiền là mài. Luận là bàn bạc - Sử có nghĩa là sách, Tích là xưa.
Song: cửa. Ỷ: dựa Thơ: biên chép
Thân :mình. Liệu: tính toan Lại: nhờ cậy. Ai: thương xót