Thơ
chịu ảnh hưởng sông núi rất nhiều. Người Nam sống trong cảnh đồng ruộng mênh
mông, không có núi cao che mắt, tâm hồn bằng lặng cởi mở, tánh tình thẳng thắn
dễ dãi, nên lời thơ thường trực giản chớ ít khúc chiết, tứ thơ thường bình
khoáng chớ ít thâm viễn cao siêu.
|
Quyển
Lục Vân Tiên đã phản ảnh tâm hồn người Nam được rõ rệt.
Thơ
Hàn luật của các tiền bối còn lưu thế cũng mang rất nhiều tánh chất của miền
Nam. Tôi chưa gặp một bài thơ một câu thơ khúc mắc hiểm hóc. Muốn nói gì thì
nói thẳng chớ không rào đón quanh co, như phần nhiều thơ người miền Bắc và miền
Trung.
Đặc
biệt có hai nhà ít hay nói thẳng là Tôn Thọ Tường và Nguyễn Văn Lạc. Ông Tôn
thường dùng lối vịnh sử để ký thác tâm sự [1].
Ông Học thường dùng lối vịnh vật để phúng thứ thế thái nhân tình. Tuy vậy lời
thơ nhiều khi vẫn trực chớ không khúc. [2]
Thơ
của hai ông Tôn ông Nguyễn phần nhiều còn chải chuốt tô điểm. Có thể nói là
“văn chất bân bân”. [3]
Thơ
của các danh nhân khác, phần lớn chất hơi thắng văn.
Sau
đây tôi xin trích một ít thơ mà tôi thích:
HÀ
ÂM MỘ CẢNH
Mịt
mịt mây giăng kéo tối sầm [4]
Đau
lòng thuở nọ cảnh Hà Âm
Đống
xương Vô Định sương phau trắng [5]
Vũng
máu phi thường cỏ nhuộm thâm
Gió
trốt dật dờ nơi chiến lũy
Đèn
trời leo lét dặm u lâm
Nôm
na xin mượn vài câu điếu
Dắng
dỏi đêm trường tiếng dế ngâm. 5
Đây
là tác phẩm của Bùi Hữu Nghĩa.
Hà
Âm thuộc huyện Giang Thành tỉnh Hà Tiên.
Tác
giả nhắc lại cảnh binh đao năm Quý Tỵ (1833). Nguyên Lê Văn Khôi nổi dậy chống
lại vua Minh Mạng vì phẫn uất việc nhà vua cho cào mả Lê Văn Duyệt. Để đủ sức
chống lại quân triều đình, Lê Văn Khôi cầu cứu vua Xiêm. Vua Xiêm sai tướng đem
100 chiến thuyền vào Hà Tiên. Trương Minh Giảng đem quân chống cự. Hai bên đánh
nhau gần mấy tháng trời. Người chết vô số. Cuối cùng Trương Minh Giảng phá được
quân Xiêm tại sông Cổ Cắng ở Hà Âm.
Nhân
đi sứ Xiêm qua ngang Hà Âm, Bùi công nhớ chuyện cũ xúc cảm mà làm thơ Hà Âm Mộ
Cảnh.
Bạn
thân của Bùi công là Huỳnh Mẫn Đạt và Phan Văn Trị. Huỳnh Mẫn Đạt một lớp tuổi
cùng Bùi công, còn ông Phan nhỏ thua đến hai giáp, là hàng bạn vong niên. [6]
Cũng
như thơ của Bùi Hữu Nghĩa, thơ Huỳnh Mẫn Đạt và Phan Văn Trị đều theo chủ
trương “thi dĩ tải đạo”. Cho nên vị thơ không được nồng, sắc thơ không được thắm
và nhạc thơ không được du dương. Đọc thơ của quí vị như ngồi hầu chuyện cùng
các bậc phụ lão để nghe lời khuyên bảo trong việc xử thế tu thân. Cho nên khi đến
cùng quí vị tôi thường theo quí vị đến những nơi cổ tích, đến những cảnh thiên
nhiên, để tìm hưởng lạc thú.
Đây
một bài thơ cảnh của Huỳnh Mẫn Đạt:
CẢNH
TRỜI CHIỀU
Trưa
sớm đường danh gió bụi nhiều
Vờn
quê riêng thú cảnh trời chiều
Cành
sương rai rác đơm bông bạc
Màn
ráng xuê xoang phủ gấm điều
Ngả
ngớn lưng trâu ngơ vọt mục
Bôn
chôn lối thỏ nặng vai tiều
Xót
người mệnh bạc trong chằm nhạn [7]
Ngó
mống trông mây xiết bấy nhiêu! [8]
Đây
một bài thơ cảnh của Phan Văn Trị:
AN
GIANG PHONG CẢNH
Linh
đinh bèo nước biết là đâu
Đậu
bến An Giang cảnh giục sầu
Bảy
núi mây liền chim nhíp cánh [9]
Ba
dòng nước chảy cá vênh râu [10]
Có
rau nội quạnh dân xanh mặt
Không
trái bần khô khỉ bạc đầu
Xem
hết cảnh tình rồi nghĩ nghị
Thú
vui chỉ có một thuyền câu.
Hai
cụ Nguyễn Đình Chiểu và Nguyễn Hữu Huân không biết có phải bạn thân của ba cụ
Bùi, Huỳnh, Phan hay chăng. Nhưng chắc chắn là biết nhau và kính mến nhau vì đồng
một chí hướng. Cụ Nguyễn Đình Chiểu nhỏ tuổi hơn cụ Bùi cụ Huỳnh, nhưng lớn tuổi
hơn cụ Cử Trị và cụ Thủ khoa Huân.
Thơ
Nguyễn Đình Chiểu và Nguyễn Hữu Huân lời cũng cứng, tứ cũng khô như thơ cụ Bùi,
cụ Huỳnh cụ Phan.
Đây
thơ cụ Nguyễn Đình Chiểu:
VỊNH
NGƯỜI LÀM RUỘNG
Trải
qua nắng hạ trải mưa thu
Cày
cấy ghe phen sức dãi dầu
Cúi
ngửa chung tình mươi đám ruộng
Làm
ăn giữ vốn mấy con trâu
Chuyên
nghề Hậu Tắc nhà hằng đủ [11]
Giỏi
việc Mân Phong nước chẳng sầu [12]
Chờ
gặp mùa màng trời đất thuận
Cả
trăm giống thóc một tay thâu.
Đây
thơ cụ Nguyễn Hữu Huân:
THA
BANG CẢM TÁC
Có
ai tri kỷ nhắn đôi lời
Biết
thú chi vui rủ dạo chơi
Chốn
cũ phong lưu quen những thuở
Cảnh
này quyến thức nhắm không người
Ở
ăn tuy phải nương cùng tục
Khó
nhọc đà nên cực nỗi đời
Hương
hỏa ba sinh dầu chẳng toại
Nỡ
đam hình dịch để trêu ngươi.
Những
bài thơ thượng dẫn, thẳng thắn mà nói, là những bài vận ngữ, là những áng văn
trường ốc. Chúng còn được truyền tụng là nhờ uy danh của các tác giả. Những nhà
khảo cổ thường đùng để điểm nhiễm cho thân thế cho tâm sự của các chí sỹ tiền bối
hơn là để khai thác về mặt văn chương.
Nói
một cách khác, thơ của các nhà chí sỹ tiền bối phần nhiều có giá trị lịch sử
hơn giá trị văn chương.
Và
những bài thơ chỉ có giá trị lịch sử, nghĩa là thiếu hoặc không đủ sức truyền cảm,
nếu không phải tác phẩm của những người được nghìn thu tôn kính như quí cụ Bùi
Hữu Nghĩa, Huỳnh Mẫn Đạt, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Nguyễn Hữu Huân…, mà
là của những khách hàn mặc dung thường không có uy danh, thì một khi tác giả
qua đời, chắc không còn nhiều người nhắc nhở.
Ông
Tôn Thọ Tường ra làm quan cùng thực dân Pháp, bị búa rìu thanh nghị không dung
tha. Đồng thời cùng ông cũng có lắm người không khác chi ông. Thế mà ngày nay
chúng ta không còn biết họ là ai là những ai. Họ sống và họ chết cũng in như
cây tạp trong rừng sâu, cỏ hèn ngoài đồng rộng. Riêng ông Tôn Thọ Tường danh vẫn
còn và mãi mãi còn trong sử sách, trên môi miệng kẻ yêu văn chương. Do đâu? Nếu
không phải do những vần thơ kiệt tác.
Như
thế văn chương làm cho người trở thành bất hủ.
Còn
trường hợp các cụ Bùi, Huỳnh, Nguyễn, Phan, Nguyễn… lại nhờ tâm chí nhờ khí tiết
mà văn chương được lưu truyền nghìn muôn thu.
Như
thế là người làm cho văn chương trở thành bất hủ.
Có
đức thiếu tài là chất thắng văn.
Có
tài thiếu đức là văn thắng chất.
Văn
chất bân vân mới thật là hoàn hảo.
Tài
và đức đều do khí thiêng của non sông un đúc. Những người xem văn chương một
cách sâu sắc một cách tinh vi, thường biết được nhân vật biết được phong thủy của
nơi sản xuất ra những áng văn chương ấy.
Cho
nên thời Tây Châu ở bên Trung Hoa, nhà vua bằng vào những câu phong dao của các
nước chư hầu dâng lên mà xét về phong hóa về chánh trị để định mức thưởng phạt.
Và
bằng vào những áng văn chương thời Pháp mới đặt nền đô hộ ở miền Nam, chúng ta
nhận thấy sỹ khí ở miền Nam lúc bấy giờ thật cao mà cũng thật vững. Và xem tất
cả những áng văn chương từ trước, chúng ta nhận thấy người miền Nam chuộng chất
hơn văn. Đó là do tánh tình, do phong thủy.
[1] Đã nói ở trước, bài
số 25.
[2] Sẽ nói ở các bài sau.
[3] Văn chất bân bân: vẻ
đẹp bên ngoài và thực chất bên trong cân xứng nhau.
[4] & 5
Trong Giai Thoại Làng Nho chép là “tối rầm”, “gắng gỏi”
[5] Trong Kiều có câu
“Đống xương Vô Định đã cao bằng đầu” mượn chữ và ý trong câu thơ Đường: Khả lân
Vô Định hà biên cốt.
[6] Bùi Hữu Nghĩa (1807-1872). -
Huỳnh Mẫn Đạt (1807-1883)
Phan Văn Trị (1830-1910). - Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888)
Nguyễn Hữu Huân (1841-1875)
[7] Chằm nhạn: Nhạn trạch
- Kinh Thi có câu: Hồng nhạn vu qui tập vu trung trạch. Nghĩa là chim nhạn chim
hồng trở về, hợp nhau trong chằm - Nói về cảnh cư trú đông đúc của dân.
[8] Ngó mống trông mây:
thoát ý câu “vọng chân quê” trong sách Mạnh Tử nói về vua Thang: Lòng dân trông
ông Thang đến phạt tội điếu dân chẳng khác chi đại hạn trông mưa; thấy mây thì
lòng mừng, nhưng lại sợ cứ ngó chừng xem có mống làm mất mưa đi chăng.
Câu kết tả tình cảnh
cỉa dân miền Nam khi mới thuộc quyền cai trị của Pháp.
Bài này trong Văn Đàn
Bảo Giám chép có chỗ khác:
Trưa sớm đài doanh gió
bụi nhiều
Vườn quê vui thú cảnh
trời chiều
Cành chim rải rác đâm
bông bạc
Màn chấu xuê xoa giải
gấm điều
Ngả ngớn lưng trâu ngơ
vọt mục
Loi thoi bóng ác khẳm
thuyền tiều
Xót người mạng bạc
trong trầm nhạn
Ngó mống trông mưa
biết bấy nhiêu.
[9] Bảy núi là núi Thất
Sơn ở Châu Đốc.
[10] Ba dòng là Tiền
Giang, Hậu Giang và sông Vàm Nao.
[11] Hậu Tắc là một quan
coi việc nông chính.
[12] Mân Phong: Ông thủy
tổ nhà Châu là ông Khử làm quan Hậu Tắc đời vua Thuấn, được phong ở đất Thái
sau cháu là Công Lưu dời sang đất Mân cũng giữ chức Hậu Tắc. Mân phong là đất
Mân phong cho Công Lưu.