Tôn
Thọ Tường vì ra phục vụ cho Chánh Phủ Pháp trong khi sỹ phu toàn quốc đứng lên
chống thực dân xâm lăng, nên bị mang tội cùng danh giáo. Trong trăm năm đã bị
búa rìu thanh nghị, ngoài trăm năm còn để lụy cho văn chương!
|
Những
bài thơ họa vân thơ họ Tôn của các danh sỹ trong Nam, nhất là của Phan Văn Trị,
là những bản án có hiệu lực nghìn thu. Và từ ngày chữ quốc ngữ thịnh hành, các
nhà viết sách báo, hễ nói đến văn chương họ Tôn, thì hầu hết đều đem đời chánh
trị của tác giả để mổ xẻ tác phẩm. Đến nhà thơ Đông Hồ, một nhà thơ hiền từ
nhân hậu, cũng không tha thứ tội lỗi, mặc dù rất phục văn chương [1].
Bởi vì đối với người Á Đông, nhất là những người thấm nhuần đạo đức cổ truyền,
những người ấp ủ tinh thần dân tộc, phẩm hạnh và văn chương thường không tách rời
nhau.
Kể
cũng tội nghiệp cho văn chương, vì mặt trống đã bị xuống tay thì lòng chuông
tránh sao khỏi động. Mà văn chương nào có tội tình gì!
Cho
nên ở đây chỉ nói đến những cái hay cái dở trong các thi phẩm của họ Tôn còn để,
nghĩa là chỉ nói về mặt văn chương thuần túy mà thôi.
Thi
phẩm của Tôn Thọ Tường mà tôi được đọc rải rác trong các sách, không quá hai
mươi thiên. Tất cả đều theo thể thất ngôn luật:
-
Thập thủ liên hoàn
-
Từ Thứ qui Tào
-
Tôn phu nhân qui Thục
-
Bái công khóc đầu Hạng Võ
-
Vịnh Kiều
-
Đĩ già đi tu
-
Chùa Cây Mai
-
Gặp Huỳnh Mẫn Đạt
-
Tây hành tức sự (họa bài Phan Lương Khê)
Hầu
hết đều nhọc trí tinh công. Nhiều bài hấp thụ âm điệu thơ Lý Thương Ẩn.
Được
các nhà phê bình, các nhà viết sách giáo khoa… đề cập nhiều nhất là bài TÔN PHU
NHÂN QUI THỤC
Cật
ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng
Nghìn
thu rạng tiết gái Giang Đông
Lìa
Ngô chạnh tưởng chòm mây bạc
Về
Thục đành trao mảnh má hồng
Son
phấn thà cam dày gió bụi
Đá
vàng chi để thẹn non sông
Ai
về nhắn với Châu Công Cẩn
Thà
mích lòng anh được bụng chồng.
Thấy
đôi quyển sách chép khác đôi chỗ nơi câu trạng:
-
Lìa Ngô bịn rịn chòm mây bạc
Về
Hán trau tria mảnh má hồng.
-
Lìa Ngô luống chạnh vầng mây bạc
Về
Hán đành trao phận má hồng.
Chữ
“bịn rịn” hay. Nhưng chữ “trau tria” gợi ý điếm đàng không nhã.
Câu
“… luống chạnh vầng mây bạc, …phận má hồng” trang trọng hơn câu “…chòm mây bạc
…mảnh má hồng”.
Không
biết câu nào đúng với nguyên văn. Bài trên tôi theo nhà thơ Đông Hồ vì Đông Hồ
là người Nam lại tánh rất thận trọng, đáng tin hơn hết.
Bài
này sách vở bàn tán đã nhiều. Riêng nhận thấy bài của Đông Hồ trong Úc Viên Thi
Thoại có nhiều ý kiến sâu sắc về văn cũng như về ý.
Giá
trị văn chương của bài Tôn Phu Nhân rất cao. Đông Hồ khen là “tuyệt xảo”. Chỉ
hơi tiếc là không toàn bích, vì nơi câu luận đã có “thà”, nơi câu kết còn “thà”
nữa. Nhưng một vết ở dưới lớp lông, không thổi lông thì không ai thấy vết.
Bài
thứ hai được chú ý là bài TỪ THỨ QUI TÀO:
Thảo
đâu dám sánh kẻ cày voi
Muối
xát lòng ai nấy mặn mòi
Ở
Hán hãy còn nhiều cột cả
Về
Tào chi sá một cây còi
Bâng
khuâng nhớ mẹ khôn nâng chén
Bịn
rịn trông vua biếng giục roi
Chẳng
đặng khôn Lưu đành dại Ngụy
Thân
này xin gác ngoại vòng thoi.
Vì
được nhiều người chú ý, kẻ đọc qua người đọc lại, tam sao thất bổn, nên cũng
như bài Tôn Phu Nhân, bài Từ Thứ qui Tào các sách chép có đôi chỗ khác với bài
thượng dẫn:
Ở
Hán còn nhiều rường cột cứng
Về
Tào chi sá cỏ cây còi
Bỗng
nghe tin mẹ khôn nâng chén
Chạnh
tưởng ơn vua biếng giục roi.
Bài
Từ Thứ văn chương không bằng bài Tôn Phu Nhân. Câu khởi có nhiều vị túc nho
khen là kỳ tứ. Song tôi lại thấy có vẻ ba lơn. Còn chữ “mặn mòi” trong câu thừa
lại không đắc nghĩa. Vì “mặn mòi” cũng như “mặn mà” ngậm ý ngon lành thích thú,
mà “muối xát” thì rát thì xót, chớ sao lại thích lại ngon?! Đó là vì vần làm hại
ý.
Còn
sáu câu kia không có gì xuất sắc.
Bài
này được truyền xa rộng chỉ do năm vần “voi mòi còi roi thoi” rất kêu, rất giòn
và rất khó gieo. Khách thơ Hàn luật thường dùng năm vần ấy để thách nhau xướng
họa, và mệnh danh là “Từ Thứ vận”.
Ví
dụ cụ cử Phan Văn Trị có bài thơ:
VỊNH
HÁT BỘI
Đứa
lác đồng tiền đứa lác voi
Áo
xiêm mấy lớp cũng trơ mòi
Người
trung mặt đỏ đôi tròng bạc
Đứa
nịnh hàm râu mấy sợi còi
Trên
trính có nhà còn lợp lọng
Dưới
chân không ngựa cũng quơ roi
Hèn
chi chúng bảo là bội bạc
Bôi
mặt cùng nhau cú lại thoi.
Nói
đến Tôn Thọ Tường, những người ưa thích thi xưa không ai không biết hai bài Từ
Thứ qui Tào và Tôn Phu Nhân qui Thục. Riêng tôi, tôi thích nhất bài BÁI CÔNG
KHÓC ĐẦU HẠNG VÕ:
Trăm
hai non nước một gươm thần
Hết
giận thôi mà khóc cố nhân
Con
mắt bốn ngươi nhìn với mặt [2]
Tấm
thân tám thước thủi cùng thân
Bát
canh Quảng Võ ơn còn nhớ [3]
Chén
rượu Hồng Môn lệ khó ngăn [4]
Tấc
dạ anh hùng không dễ thấu [5]
Mặc
ai rằng giả mặc rằng chân.
Bài
này tương truyền ông Tôn làm lúc được tin ông Nguyễn Hữu Huân tuẫn quốc.
Ông
Nguyễn Hữu Huân đồng thời cùng ông Tôn Thọ Tường, nhưng tuổi nhỏ hơn. Ông thi đậu
thủ khoa lúc chưa đầy 20 tuổi. Vì đau buồn nỗi quốc gia ngộ biến, ông không xuất
sỹ, ở nhà tổ chức nghĩa quân chống xâm lăng. Năm Ất Hợi (1875) bị Pháp bắt, dụ
dỗ mấy cũng không chịu hàng, nên bị giết.
Ông
Tôn Thọ Tường cùng ông Thủ Khoa vốn là chỗ quen biết cũ, nhưng vì chí hướng
khác nhau nên trở thành đối lập.
Lời
thơ bi thống, biểu lộ tấm chân tình đối với cố nhân. Văn chương đẹp và có sức
truyền cảm mạnh hơn bài Tôn Phu Nhân qui Thục. Không phải tại vì bài này là văn
ai, mà bài kia là văn xuân. Mà chính vì bài này giàu âm nhạc hơn bài kia, và giọng
bài này lại trầm dễ đi sâu và nằm lâu nơi lòng người đọc hơn giọng bổng của bài
kia.
Tôi
thích bài BÁI CÔNG KHÓC ĐẦU HẠNG VÕ chính là do cách điệu. Nhưng tôi mới nhận
thức được “vị nội vị” tức cái hay của chữ của câu, của cách dàn ý cách dụng điển,
chớ chưa thưởng thức được “vị ngoại vị” tức là chỗ dụng tâm của tác giả, chỗ
tác giả muốn nói mà không nói, không nói nhưng đã nói.
Tôn
Thọ Tường vịnh sử không phải vì cổ nhân, mà chính vì mình. Cho nên chỉ lựa những
chi tiết thích hợp với hoàn cảnh mình, tâm sự mình, chớ không phải nhắm những sự
kiện quan trọng, những sự kiện chính yếu trong lịch sử. Tôi không được biết những
gì đã xảy ra giữa ông Thủ Khoa và ông Tôn khiến ông Tôn dùng câu chuyện nơi Quảng
Võ nơi Hồng Môn để gởi gắm tâm sự. [6]
Do
đó mà chưa nhận thức được ý ngoài lời nói của bài thơ.
Có
lẽ vì chỗ bí ẩn trong thơ chưa phát kiến, nên bài thơ ĐẦU HẠNG VÕ xưa nay các
nhà phê bình ít lưu tâm.
Sau
bài Khóc Đầu Hạng Võ tôi còn thích hai bài nữa là VỊNH KIỀU và ĐĨ GIÀ ĐI TU.
Bài
Đĩ Già Đi Tu cũng là bài thơ ký thác:
Chày
kình gióng tỉnh giấc vu san
Mái
tóc kim sinh nửa trắng vàng
Đài
kính biếng soi màu phấn nhạt
Cửa
không đành gởi cánh xuân tàn [7]
Khuây
niềm hoa liễu vài câu kệ [8]
An
cảnh tang du một chữ nhàn
Ngoảnh
lại lầu xanh thương những trẻ
Trầm
luân chưa khỏi kiếp hồng nhan.
Tình
cảnh thật đáng thương! Nỗi buồn thấm thía! Ai đã từng mang lòng buồn thương vào
nơi tịch mịch thì mới cảm thấy vị chua lạnh ngấm ngầm trong từng chữ từng câu.
Tâm
sự ấy, nỗi niềm ấy còn bộc lộ nơi bài Vịnh Kiều:
Mười
mấy năm trời nhục rửa xong
Sông
Tiền Đường đục hóa ra trong
Mảnh
duyên bình lãng còn nong nả
Chút
phận tang thương lắm ngại ngùng
Chữ
hiếu ít nhiều trời đất biết
Gánh
tình nặng nhẹ chị em chung
Soi
gương thiên cổ thương mà trách
Chẳng
trách chi Kiều trách hóa công.
Không
lẽ cứ ôm mãi mối đau thương trong lòng? Để nhẹ bớt phần nào, đổ thừa phứt cho
Trời cao thẳm! Đó là thái độ là hành vi của con người đau khổ không còn có ngõ
thoát. Đoạn trường ai có qua cầu mới hay…
Nhưng
cũng nhờ có nỗi đoạn trường mới có những vần thơ tinh diệu. Thì những bạn yêu
thơ Tôn Thọ Tường tưởng cũng nên cảm ơn nỗi đoạn trường đã làm khổ họ Tôn, và
hoàn cảnh đã gây nên nỗi đoạn trường ấy.
Trong
mục Văn Đàn Giảng Luận của An Nam Tạp Chí thời Tiền Chiến, Tản Đà tiên sinh đã
khen:
-
Thơ hay có nhiều cách… Thơ vịnh sử Tôn Thọ Tường hay.
Thật
vậy. Những thơ Tôn Thọ Tường còn để lại, thơ tình, thơ cảnh, thơ vịnh sử, bài
nào cũng gồm đủ thanh sắc vị, ba yếu tố cần thiết của thơ. Nhưng thơ vịnh sử xuất
sắc hơn cả. Bài nào cũng phiên trần xuất tân, bài nào cũng là thốn tâm thiên cổ.
Ấy cũng bởi công việc là công việc của người xưa mà tâm sự là tâm sự của riêng
ông, tâm sự riêng bao trùm cả công việc xưa khiến những lớp bụi thời gian không
còn ngõ chen lấn vào ngòi bút. Nhờ thế mà thơ có nhiều vị tuấn vĩnh, trong làng
thơ cổ điển Việt Nam, về môn vịnh sử, chưa có nhà thơ nào sánh vai.
[1] Xem Úc Viên Thi
Thoại.
[2] Hạng Võ hai con mắt
mỗi con đến hai con ngươi, và thân cao tám thước.
[3] Hạng Võ bắt được cha
Bái Công, bảo Bái Công nếu không đầu hàng thì làm thịt nấu canh. Bái Công đáp:
Cha tao cũng như cha mày, nếu mày có nấu canh thì chia cho tao một bát. Hạng Võ
cảm động liền tha. Việc xảy ra tại đất Quảng Võ.
[4] Phạm Tăng bày mưu
cùng Hạng Võ thết tiệc tại Hồng Môn mời Bái Công đến để giết. Nhưng thấy Bái
Công đối xử theo lễ kẻ dưới, Hạng Võ không nỡ giết.
[5] Có chỗ chép là “Giọt
lệ anh hùng lau chẳng ráo”. Dám quả quyết là sai vì câu trên vừa nói “lệ khó
ngăn” lẽ đâu lại nói tiếp “lệ khó ráo” nữa. Huống chi “giọt lệ anh hùng lau
chẳng ráo” không gói gọn được ý nghĩa của 6 câu trên.
[6] Trong Giai Thoại Làng
Nho của Lãng Nhân có nói rõ về thân thế của ông Thủ Khoa, nhưng mối liên lạc
giữa ông Thủ Khoa và ông Tôn Thọ Tường không thấy nói.
[7] Có chỗ chép là “cái
xuân tàn”. Tôi nghĩ “cái xuân” cũng như “cái hồng nhan là của riêng bà Hồ Xuân
Hương, chớ ông Tôn Thọ Tường dù đội lốt đĩ già cũng không thể để lẫn trong văn
chương tao nhã của ông. Tôi nghe các cụ miền Trung đọc là “cánh xuân tàn” thì
thật hợp cảnh hợp người. Cũng có người đọc là “vóc xuân tàn” song cầu kỳ không
hay.
[8] Có chỗ chép là “Chạnh
niềm hoa liễu…”, chỗ lại chép là “Hú hồn hoa liễu”.