Bên
cạnh thơ Châm Phúng và Trào Phúng, còn có thơ Hài Hước.
|
Thơ
HÀI HƯỚC chỉ chuyên về trêu cợt bông đùa để mua vui, chớ không ngậm ý mỉa mai
châm chích.
Như bài BỠN BÀ LANG
KHÓC CHỒNG của Hồ Xuân Hương:
Văng
vẳng tai nghe tiếng khóc gì?
Thương
chồng nên nổi khóc hi hi…
Ngọt
bùi thiếp nhớ mùi cam thảo,
Cay
đắng chàng ơi vị quế chi!
Thạch
nhũ trần bì sao để lại,
Qui
thân liên nhục tẩm đem đi!
Dao
cầu thiếp biết trao ai nhỉ?
Sanh
ký chàng ơi tử tắc qui.
Trong
bài có trộn nhiều vị thuốc Bắc nhưng chất thơ vẫn ngọt ngào dễ ưa. Bà lang
đương buồn, nghe thơ cũng phải lau nước mắt mỉm cười.
Cùng một tánh chất
với bài Bỡn Bà Lang, có bài GIỄU CÔ ME
TÂY LẬP ĐIỆN THỜ của Hiếu Khanh Phạm Ứng Thuần ở Nam Định:
Rứt
cái mề đay ném xuống sông
Thôi
thôi moa cũng mét xì ông ! [1]
Âu
đành chùa đó âu đành bụt,
Cũng
chẳng con chi cũng chẳng chồng.
Chớ
thấy câu kinh mà mặc kệ…
Nào
ngờ chữ sắc hóa ra không !
Tôi
đây cũng muốn như cô vậy,
Trót
nợ trần hoàn gỡ chửa xong.
Cô
me tây đây là tình nhân của một quan công sứ, vì có góp phần vào việc chẩn tế nạn
lụt năm Bính Ngọ (1906), nên được ân hưởng Kim Tiền. Khi quan công sứ về Pháp,
cô buồn xin lập điện trong chùa Phù Long, sớm khuya hầu thánh.
Vì
điện tuy lập ở trong chùa Phật, nhưng lại thờ Thánh Mẫu, nên tác giả mới có câu
“chớ thấy câu kinh mà mặc kệ”.
Giọng
văn có vẻ dí dỏm, song chỉ có tính cách đùa cợt chớ không ngậm ý chế nhạo. Cô
Tây có gặp tác giả chắc chỉ nguýt và mắng yêu theo kiểu các Mệ:
-
Con quỉ! Đã buồn thúi ruột mà còn trêu!
Hai
bài thơ trên ngó thì dễ, nhưng làm nên không phải dễ. Phải có tấm lòng khoáng đạt,
phải có ngòi bút lưu lợi và khiếu khôi hài, mới mong có được những bài như thế.
Ở
Bình Định có cụ tú NGUYỄN KHUÊ tánh tình hiền hậu mà tài hài hước, tài phúng
thích, không mấy người theo bén chân. Cụ vốn là người trong phong trào Cần
Vương chống Pháp còn sống sót. Viên tri huyện Bình Khê (Bình Định) đòi cụ lên
trình diện, nghe nói cụ giỏi thơ, muốn trắc nghiệm bèn bảo cụ thích thực CỤC CỨT
SẮT. Biết rằng viên tri huyện chê mình là đồ dư dụng và vô dụng, cụ bèn đá lại
ngay:
Ủi
lầm sợ nỗi heo trầy mũi
Cạp
lỡ e khi chó gãy răng.
Nhưng
đó thuộc về thơ châm phúng, bởi giáo đâm qua gươm phải chém lại, ăn miếng trả
miếng mới vừa lòng nhau.
Nhiều khi người ta
ra cho cụ nhiều đầu đề rất oái ăm hoặc tục tĩu. Nhận thấy người ra đề không có
ác ý mà chỉ có mục đích bông đùa, thì cụ đáp lại bằng những lời cười cợt có thú
và có duyên, nhưng không kém phần hóm hỉnh. Như một hôm cùng bạn ngồi uống trà
nơi tây hiên, một người đàn bà hàng xóm vô ý ngồi tiểu nơi góc rào bên cạnh. Một
ông bạn, thách cụ làm thi tức cảnh. Cụ đọc:
Quanh
quất trông chừng thấy chúng xa
Hai
tay khẽ trụt nửa quần là…
Gành
ngao thấp thoáng rêu mờ đá,
Bãi
hạc lao xao nước trổ
hoa.
Kiến
tưởng mưa dông tha trứng chạy,
Cóc
ngờ lụt ói cõng con ra…
Cũng
vì méo mó nên che đậy,
Sớm
giữ hôm gìn của mẹ cha.
Lại một lần các bạn
lại ra cho cụ đầu đề “… LỚN
TÀY MO” hạn vận “To so mo đò bò”. Đề bài đã khó xoay sở cho ra ý lại còn thêm
những vận chỉ chực bóp chết tứ thơ! Ai nấy đều tưởng chắc cụ gác bút đầu hàng.
Không ngờ chưa cháy hết cây nhang, cụ đã thôi xao đủ năm vận:
Tày
cái bàn tay cũng đã to
Cái
này cha chả lớn tày mo !
Xấp
ba lá chóc không bì kịp,
Vạch
một bồ đài mới xứng so.
Tắm
giếng hãi hồn con gánh nước,
Lội
sông mất vía lão chèo đò !
Gái
mà như thế ai thèm ngó ?
Lỏm
lẻm dòm chơi họa có bò.
Đề
thì tục mà bài làm không một câu tục, không một chữ tục! Văn lại sát đề và
thoát sáo. Người khó tánh đến đâu cũng phải công nhận là xảo tứ tinh công.
Hai
bài thơ của họ Phạm họ Hồ ngậm ý trêu cợt. Hai bài của cụ tú Khuê hoàn toàn
bông đùa, đọc nghe vui chớ không làm cho ai phải nhột nhạt.
Cụ Nguyễn Khuyến
cũng có một bài đùa mà không cợt như thế. Đó là bài SUÔNG TÌNH: [2]
Đã
bấy lâu nay bác tới nhà,
Trẻ
thời đi vắng chợ thời xa !
Ao
sâu nước cả khôn chài cá,
Vườn
rộng rào thưa khó đuổi gà.
Cải
chửa ra cây cà mới nụ,
Bầu
vừa rụng rún mướp đương hoa.
Đầu
trò tiếp khách trầu không có,
Bác
đến chơi đây ta với ta.
Khi
cao hứng ngâm mấy vần trên đây, không biết cụ Tam Nguyên có thoáng nghĩ đến những
câu ca dao:
Ao
to ta thả cá chơi,
Hồ
rộng nuôi vịt, vườn khơi nuôi gà.
Quanh
năm khách khứa trong nhà,
Ao
vườn sẵn đó lọ là tìm đâu.
***
Ca
dao của ta rất phong phú. Nếu ra công sưu tầm và san định thì bộ ca dao Việt
Nam chắc không nhượng bộ Kinh Thi của Trung Quốc. Ca dao của ta cũng như Kinh
Thi của Tàu gồm đủ lối đủ thể. Riêng nói về loại phúng thích và hài hước, ca
dao cũng là một kho tàng có nhiều vàng châu.
Phúng
thích như:
+
Giương cung rắp bắn phượng hoàng
Chẳng
may lại gặp một đàn chim di
Lấy
sào mà đuổi nó đi
Nó
kêu ríu rít kẻo thì điếc tai.
+
Canh khuya giấc điệp mơ màng
Thấy
hòn gạch thắm ngỡ vàng nâng niu.
+
Cha đời con gái xứ Đông
Ăn
trộm tiền chồng mua khố cho trai.
Cha
đời con gái xứ Đoài
Yêu
chồng thì ít yêu trai thì nhiều.
+
Trèo lên trên núi mà coi
Em
ơi, anh dạy em học tiếng Tàu:
Tỉu
nhà ma nị sao lại đâm đầu lấy Ngô.
+
Tham giàu em lấy thằng bé tỉ ti
Làng
trên trại dưới thiếu gì trai tơ.
Em
đem thân cho thằng bé nó dày vò,
Mùa
đông tháng giá nó nằm co trong lòng.
Cũng
mang là gái có chồng,
Chín
đêm trực tiết nằm không cả mười.
Nói
ra sợ chị em cười,
Má
hồng bỏ quá thiệt đời xuân xanh.
Em
cũng liều mình về thằng bé trẻ ranh,
Đêm
nằm rờ mó quẩn quanh cho đỡ buồn
Buồn
tình em lại bế thằng bé nó lên,
Nó
còn bé mọn đã nên cơm cháo gì !
Nó
ngủ nó ngáy khì khì
Một
giấc đến sáng còn gì là xuân !
+
Hỡi thằng cu lớn ! Hỡi thằng cu bé !
Cu
tí, cu tị, cu tỉ, cu tì ơi !
Con
hãy dậy, con ăn con ở với bà,
Để
mẹ đi kiếm một và con thêm.
Bố
con chết đi, bụng mẹ nó hãy còn thèm,
Mẹ
xem quẻ bói, còn một đàn em trong bụng này.
Con
ra gọi chú nó vào đây,
Để
mẹ giao trả cái cơ nghiệp này, mẹ bước đi.
vân vân…
Lối phúng thích -
châm phúng cũng như trào phúng trong ca dao, thường không sâu cay độc địa, mà
chỉ tinh nghịch hóm hỉnh, và tất cả đều mang tánh chất chung là tánh chất phổ
thông. Cho nên đọc có nhiều hứng thú, và người dù có thấy diện mục mình ở trong
thơ thì cũng chỉ nhột chớ không xốn.
Lối
hài hước trong ca dao cũng rất duyên dáng:
+ Giữa trời đốt một đống rơm.
Khói
lên nghi ngút chẳng thơm chút nào.
Khói
bay lên thấu Thiên Tào,
Ngọc
Hoàng phán hỏi: - Đứa nào đốt rơm ?
+ Bà già đi chợ Cầu Đông
Bói
xem một quẻ lấy chồng lợi chăng.
Ông
thầy xem quẻ nói rằng:
Lợi
thì có lợi nhưng răng không còn.
+ Cái cò là cái cò quăm,
Mày
hay đánh vợ, mày nằm với ai ?
Có
đánh thì đánh ban mai
Đừng
đánh chập tối chẳng ai cho nằm.
+ Gái chính chuyên lấy được chín chồng,
Vò
viên bỏ lọ gánh gồng đi chơi.
Giữa
đường quang đứt lọ rơi,
Bò
ra lổm ngổm chín nơi chín chồng.
Thật
là dí dỏm. Nhưng không phải luôn luôn ngọt ngào như thế. Nhiều khi cũng có gia
vị chút ít ớt tỏi, chút ít hành tiêu:
+ Gái chín chuyên lấy được chín chồng,
Ba
chồng thành Lạng ba chồng thành Cao,
Ba
chồng để ngọn sông Đào,
Trở
về đỏng đảnh làm cao chưa chồng.
+ Ba
cô đội gạo lên chùa,
Một
cô yếm thắm bỏ bùa cho sư.
Cô
về sư ốm tương tư,
Ốm
lăn ốm lóc cho sư trọc đầu.
vân
vân…
Ca
dao trước đây ông NGUYỄN VĂN NGỌC đã ra công sưu tập được trên dưới nghìn bài.
Phần nhiều là ca dao miền Bắc. Miền Trung và miền Nam chưa thấy có người noi
gương ông Ngọc, để bảo tồn nền văn học bình dân “Đàng Trong” và để góp phần vào
bộ Ca Dao “Đàng Ngoài” của ông Ngọc, thành bộ Ca Dao Việt Nam.
Như
trên đã nói, Ca Dao Việt Nam rất phong phú, phong phú về số lượng, về hình thức
và về nội dung. Một ít câu về lối phúng thích và hài hước trích dẫn trên đây
cũng đủ làm đôi làn hương báo cho khách du phương biết rằng có rừng hoa ngâu ở
bên cạnh.
Về
lối Hài Hước trong ca dao cũng như trong thơ, tuy chỉ nhằm mục đích vui cười
đùa cợt, chớ không ngụ ý dạy dỗ khuyên răn như lối phúng thích.
Song
không phải hoàn toàn cười cợt, không phải tất cả đều chỉ có công dụng vui đùa.
Nhiều khi vui đùa mà khuyên răn, cười cợt mà sửa chữa. Có ích lợi hay chăng là ở
chỗ biết dùng hay không biết.
Và
làm được văn thơ khôi hài hay châm biếm, không phải nhà thơ nào cũng làm được,
không phải nhà thơ nào làm được cũng đều làm được bài hay. Phải có trí thông
minh, phải có tài hoạt bát…
Bởi vậy từ xưa đến nay đâu có nhiều Hồ Xuân Hương, đâu có nhiều Nguyễn Khuyến,
đâu có nhiều Nguyễn Văn Lạc, Trần Kế Xương…
[1] Bài này nhiều sách
chép là của Trần Tế Xương. Phạm Ứng Thuần cùng làng với ông Tú (làng Vỵ Xuyên,
huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định) nhưng thuộc lớp hậu bối (Tú Xương sanh năm 1870,
ông Phạm sanh năm 1885).
[2] Có sách chép là “Bạn
đến chơi nhà”.
[3] Nước Trung Hoa bị
người Mãn Thanh đô hộ. Vua quan Mãn Thanh buộc người Trung Hoa phải cạo tóc vóc
bím theo phong tục Mãn Thanh. Cái bím tóc ấy người Việt Nam gọi là Đuôi Chệt.
[4] Ở Bắc Việt nhiều nơi
thôn quê có tục lấy vợ sớm cho con. Để giúp đỡ việc nhà thường cưới những cô
gái lớn tuổi.