|
Cụ Vương Hồng Sển |
Nhiều người, thiên tư phú tánh, biết làm thi phú từ bé thơ. Người thì vừa tu oa đã là ông hoàng bà chúa! Người chơi sách không đẻ bọc điều như vậy. Cũng có người tốt phước hưởng của phụ ấm hoặc có sẵn tủ sách của cô bác cha mẹ lưu truyền lại. Nhưng phần đông, tự tạo lấy mình và phải trọng tuổi mới hiểu thấu đáo thú chơi sách và biết giá trị bộ nào hay, bộ nào dở.
Có khi khác vì một dịp may nhờ một cơ hội thuận tiện, khi nghe đồn trong một buổi dạ hội hay tiếp tân. Khi thấy trong mục quảng cáo trong tờ báo hoặc nhơn khi đi xem một cuộc triển lãm, viếng viện bảo tàng hay vào thư viện công cộng rồi nảy ra ý sưu tầm và chơi sách.
Từ thưở nhỏ, tôi đã là một con sâu đọc sách. Tôi đọc bất luận sách, truyện, thơ, tuồng, đọc để mà đọc. Lúc ấy tôi như con tằm ăn lá dâu, ăn để mà ăn, ăn thật nhiều, thật no chứ chưa biết kén lá ngon lá tệ. Sách đẹp, sách đóng bìa khéo tôi chưa biết thưởng thức, vì khi đọc, tôi đọc bất cứ nơi nào, trên giường, trên võng, kẹt sân. Đi đâu tôi cũng có thủ sẵn một xấp giấy, một cuốn sách để đọc và đọc như thế, sách đóng bìa đẹp chỉ là bề bộn. Mình sợ hư, sợ rách đã bớt hứng thú không ít vậy. Năm ra trường, lập gia đình, trước tiên tôi mua sách nhưng cốt ý để khỏi mượn nhờ chớ cũng chưa có lập tâm sắm sách như tiền nuôi heo bỏ ống.
Năm 1926, gia đình tan rã lần đầu mà cũng lần đầu tiên tôi nhìn thấy cuốn sách là một bạn tốt, tốt hơn vợ và bạn trai nhiều. Nhờ trả phố, bán đồ thập vật để theo ở đậu ăn cơm tháng cho thêm tự do, tôi có một số tiền lưng khá gọi là lớn vào thời ấy: một ngàn bạc năm 1926. Vừa đúng lúc báo “L’Impartical rao bán một tủ sách của một học giả Pháp vừa từ trần. Tôi làm gan tìm nhà hỏi mua.
Tôi gặp một bà đầm già, chồng vừa mất, nay định về Tây an hưởng tuổi nhàn nên muốn bán đi bớt phân nửa số sách của chồng để lại. Tủ sách gồm lối hai ba trăm quyển, chia ra làm hai bộ y như nhau:
Một bộ bìa da đỏ, mạ vàng, bà chỉ cho xem nhưng nói trước nhứt định không bán vì bà muốn giữ lại làm kỷ niệm của chồng.
Tôi nhìn kỹ, quyển nào cũng còn mới, không lem luốc, thêm có phần đẹp đẽ, sắc sảo nữa là khác. Tôi tiếc quá, trong bụng thầm muốn nài trả giá cao để mua sách như vầy cho khỏi sợ vi trùng truyền nhiễm. Nhưng bà lắc đầu, chỉ cho tôi bộ thứ hai, độ non một trăm quyển, y hệt như bộ trước, duy khác là lớp đóng bìa da đen, lớp đóng bìa vải đen. Xem có phần xấu xí, hư tệ hơn bộ kia. Bà nói đây là bộ sách của chồng thường dùng trong khi nghiên cứu và viết lách. Như cần dùng, bà sẵn lòng để rẻ.
Tôi lật thử xem thì sách không vừa bụng, phần nhiều có gạch bút chì xanh đỏ lăng nhăng và thêm bớt nhiều chỗ nhiều đoạn bằng chữ viết tay quằn quèo. Bìa sách cũng đã đúng tuổi, lùi xùi tơi tả, không ưng ý chút nào. Tôi giả đò chê sách hư, sách rách và nói chỉ thích bộ trước bao nhiêu tôi cũng sẵn lòng mua. Bà nghe tôi chê, có ý sợ tôi bỏ đi thì không còn ai xử giùm bà mớ sách dư xài ấy, nên bà hạ giọng thiết tha:
– Sách nầy không đâu có. Mua không phí tiền đâu mà sợ! Chồng tôi xưa trọng dụng nó và quý vô ngần. Thầy không mua, tôi đem về Pháp sẽ hiến cho thư viện quốc gia. Chỉ vì thân già, một bộ mang đi cũng đủ nhọc, hai bộ thì nó bận chân vướng cẳng thêm cho gì. Như thầy ưng mua, tôi tính nới, dứt giá một trăm sáu chục đồng (160$) tám mươi bốn cuốn sách.
Ối là rẻ, Chúa ơi là Chúa!! Tôi mừng quá, lật đật chi tiền và không quên ép bà biên cho ba chữ nay còn để dành trong hồ sơ:
Saigon le 30 Aout 1926
Recu de Monsieur Vuong Hong Sen
La somme de Deux cent soixante piasters pour la vente de 84 livers provenant de la bibliothèque de mon mari – y compris le grand Dictionnaire chinois de Mr de Guignes, édition de 1913, don’t le prix est de Cent piastres
Je dis 84 livres. Signé: Vve J.C.BOSCQ
(Timbre de quittance de 0$12)
Đọc tờ biên nhận, nay đã biết chồng bà tên J.C Boscq. Nếu đã hài danh, hài tánh mà các bạn vẫn không quan tâm đến nhơn vật này thì việc cũng nên tha thứ, tha thứ cho tuổi trẻ trung của các bạn mà tôi thèm thuồng. Tha thứ cho lối hành văn lẩn thẩn quên nói lão chết đã ba mươi ngoài năm ai tài nào nhớ nổi!
Kỳ trung ông Boscq nhà ở một con đường với anh Nguyễn Hiến Lê trên Tân Định (nay là đường Huỳnh Tịnh Của) là môn đệ của cụ Trương Vĩnh Ký, lão thông Nho học, nói giỏi tiếng Việt từng cộng sự với ông Diệp Văn Cường và Nguyễn Văn Mai. Ông vốn là thông dịch quan của Tòa tư pháp, tác giả quyền “Méthode de lecture Boscq”, lại là một nhà chơi sách khét tiếng thời ấy.
Không dè với hai trăm sáu chục bạc, tôi nghiễm nhiên trở nên người nối nghiệp cho ông để cất giữ những sách hư rách và bụi bặm nhưng quý vô giá đối với thời buổi hiện tại. Và nhờ có duyên kiếp trước, rõ lại những sách bà đầm mang về Pháp tuy còn mới nhưng tên tuổi không nhiều như những sách tôi mua được. Gồm những bộ có chữ ký và chữ viết của các soạn giả đồng thời với ông Boscq như các cụ Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký… Tôi dạn thêm và hỏi bà còn những gì muốn bán cho gọn nữa chăng?
Khi ấy bà đưa tôi vào văn phòng của chồng bà, tôi thấy sách mà ngốt nhưng toàn những bộ dễ kiếm, có tiền là mua được ngay từ bên Pháp chuyển sang. Tôi để ý và hỏi nài được quyển tự điển Hoa – Pháp – Latinh (Dictionnaire chinois – francais – latinh) của de Guignes, tôi mua một trăm bạc về sau bán ra được hai ngàn năm trăm đồng (sau 1954). Tự điển de Guignes in năm 1813, cho ta biết nếu hoàng đề Napoleon không thất trận Waterloo, có thể dám đánh luôn để thâu đoạt Trung Hoa và Việt Nam cũng chưa biết chừng. Vì chưa chi mà Napoleon đã sai sứ thần tại Bắc Kinh, de Guignes, dọn cho người biết văn hóa và tiếng nói Trung Quốc: hoặc Napoleon toàn thắng sẽ làm bá chủ hoàn cầu hoặc ông bại trận vì tay kiệt xuất Anh quốc rồi các thuộc địa Pháp sang qua tay Hồng mao và cuộc thế miền Đông Nam Á tế Á đổi khác sớm hơn bây giờ.
Nhưng không giỏi gì xây dựng trái đất bằng chữ “nếu”, trở lại thực tế, khi ra về, tôi thấy bỏ xó kẹt một gói giấy nhựt trình, tuy chưa biết trong ấy gói những sách gì, tôi cứ hỏi mua. Bà đưa nghiêng mắt liếc sơ gói giấy rồi lên giọng đài các:
“Ối! Đó là sách chữ Tàu, không biết nói gì ở trỏng! Tôi không định bán, nhưng cũng không biết bao nhiêu mà định. Thầy mua sách tôi đã nhiều, cứ lấy về chơi. Tôi cho thầy đó”
Cám ơn, từ giã, ôm về, chải bụi, o bế và xem kỹ: Mẹ ôi! Đó là bộ “Hoàng Việt luật lệ đời Gia Long”, mỗi quyển có ấn chữ son “Khâm sai đại thần”. Sau tôi tra cứu và hỏi thăm, gặp ông Cao Văn Sự Đốc phủ, từng biết ông Boscq, ông Sự cho tôi rõ, ông Boscq lãnh của thầy là Trương Vĩnh Ký bộ sách có chữ ấn son “Khâm Sai Đại Thần” nầy vốn là sách quý do binh Pháp lấy được nơi đồn Khải Tường của đại tướng Nguyễn Tri Phương, như vậy bà Boscq đã biếu tôi một bộ sách vô giá (1-2-1989)
Nói chí đáng, những sách tôi mua thì tôi cho rằng quý; đến ngày nay sau trận loạn 1945-1946, sách vở trở nên khan hiếm, chớ trước năm 1945, những nhà chơi sách lo sắm sách Pháp, Montaigne, Anatole France, Jules Romains chớ ít để ý đến sách khảo về văn minh Trung Hoa. Trước nhà ga Sài Gòn, có nguyên một dãy phố lầu của các chú bán lạc son những sách nữa sạc mà đâu có ai ngó ngàng đếm xỉa?
Chính tôi mua tại đó nhiều bộ rẻ mạt: bộ sử Việt của Trương Vĩnh Ký, ba quyển ba hào (0$30), bộ Abrégé de l’histoire d’Annam của Alfred Schreiner, còn mới, năm cắc (0$50), quyển sử Việt de Launay, một cắc (0$10)
Mấy năm binh Nhật tràn lan đất Việt có nhà Tín Mỹ dọn một căn phố lớn Gia Long, bán kính với Huê kiều, toàn những sách cũ mua nới đem về o bế lại. Làm ăn đương xân xẩn, kế bị bom nổ, mạnh ai về xứ nấy, khi trở lên, nhà Tín Mỹ dẹp hồi nào không ai hay biết. Lão Tín Mỹ mê cá ngựa bị ngựa đá, tiêu tùng, mất tích luôn từ đó.
Đường Gia Long, ngang bộ kinh tế ngày nay có nhà tầm tầm thỉnh thoảng bán sách của người Pháp phát mãi. Cả đống sách của trường Viễn Đông Bác Cổ (Bulletin de L’École Francaise d’Extreme-Orient) một xe bò chở không hết, bán ra không đến năm chục bạc (50$). Không như ngày nay, một bộ môn đầy đủ của tập san nầy, từ năm 1901 trở lại đây, nếu có, bán không dưới hai trăm ngàn bạc! Năm ni 1989 có bạc triệu cũng không mua được (1-2-1989)
Tôi còn nhớ một năm nọ, giáo sư Neumann từ trần, ông là nhà chơi sách khét tiếng Sài Gòn, sách đem pháp mãi, nhiều bộ tròm trèm một ngàn bạc, buổi ấy (lối 1940) ai cũng cho rằng bán được tiền.
Ngoài ra còn nhiều nhà Pháp chơi sách cẩn thận, nhưng khi thôi ở bên nầy thì chuyển chở về xứ… Có nhiều ông như quan năm Seé, mỗi tuần mỗi nhận từ Pháp sách mới, rọc coi rồi bày bán đường Tự Do không để dành. Trái lại cựu thống đốc Nam Kỳ, Pagès, mua sách loại đắt tiền, sai thơ ký rọc bằng dao tre, sách càng lùi xùi thơ ký càng mau thăng chức. Sách ông Pagès nhà đóng sách Nguyễn Văn Châu ăn tiền bộn nhưng sau không biết ra sao.
|
Tạp chí Xưa & Nay số tưởng nhớ Vương Hồng Sển |
Trong giới người Việt biết yêu sách, tôi có quen một ông, tánh tình hiền lành nhưng rất khó đối với sách: quyển nào anh em mượn, trả về có chút hư hao, ông không nói gì, sai đem bán lấy tiền đắp thêm mua cuốn mới. Đó là ông Đoàn Quan Tấn.
Một ông cưng sách như trứng mỏng, cắp nắp ôm đồm từ những quyển học trường lớn bên Pháp đến những tập hai ba xu Việt văn. Việt Minh bùng dậy, phá làng đốt xóm. Tủ sách ông ra tro. Từ ấy, tóc ông càng bạc thêm, ông chuyên về tu hành, nghiên cứu Phật giáo, những ai dở chuyện sách ra nói, mí mắt ông ướt hồi nào không hay. Đó là ông Phạm Văn Còn.
Một ông nữa cắp ca cắp củm, sưu tập nhiều bộ nếu nay còn là một kho tàng quý giá vô cùng, vì ông là nhà khảo cứu chuyên về sử học Việt Nam. Không bộ sách nào ông không có, nào Khâm Định, nào Thật lục, đủ cả, luôn những bộ môn sách Pháp như bộ Đô thành hiếu cổ, bộ Viễn Đông bác cổ, kịp năm loạn lạc, lớp bị đốt, lớp Tây lấy, lớp người ta dọn. Ông chỉ còn một cái cười hồn nhiên của nhà học giả chơn chánh, không buồn sắm nữa, cũng không hít hà! Đó là ông Lê Thọ Xuân.
Tháng 5 năm 1960, báo Văn Hữu phá chơi kể ra những tủ sách quý nay không còn: thư viện Phạm Quỳnh, thư viện Phạm Liệu, thư viện Đào Duy Anh, thư viện Dương Tấn Tươi, có cả tủ sách anh bạn thân Lê Ngọc Trụ. Còn nhiều thư viên đầy đủ hơn nữa, nhưng vì chưa biết nên tác giả trong báo Văn Hữu chịu làm thinh. Kể ra tác giả cũng khéo tọc mạch chuyện người và khéo giấu tên mình, nhưng giấu làm sao được vì khi tả chân “buổi trời nước bình bồng” của lão già họ Vương thì lão ấy biết rõ ai kia được rồi! Ma mà bắt tác giả thọc mạch thóc mách!…
Vương Hồng Sển
___________________________________________
Nguồn: https://www.facebook.com/ly.le.71404/posts/3372723052791245
__________________________________________________________________
Đằng nào thì cũng phải nói về một câu chuyện buồn.
Một câu chuyện buồn nhưng liên quan đến hai nhân vật, người nào cũng rất nổi tiếng: Vương Hồng Sển và Trần Văn Khê.
Di tích quý giá công nhận gần 20 năm mà không phát huy được giá trị
Ở Sài Gòn và toàn miền Nam trước năm 1975, mấy ai không biết đến tên Vương Hồng Sển (1902 - 1996). Giới sử học và khảo cổ ở Việt Nam trước và sau năm 1975 rất kính trọng ông vì sự hiểu biết sâu rộng về văn hóa miền Nam, về cổ học và sự nghiệp sưu tập đồ cổ. Cả đời mình, ông đã tích cóp lần hồi để sở hữu được bộ sưu tập vô giá với 849 cổ vật khác nhau cùng với ngôi nhà cổ (Vân Đường Phủ) mà ông đã cất công tìm kiếm mua về nguyên căn từ vùng ngoại ô Sài Gòn.
|
Nằm lọt thỏm giữa những ngôi nhà cao tầng, bên cạnh là hàng quán cà phê, quán ốc mọc lên vô cùng nhếch nhác, ít ai biết rằng ngôi nhà này từng là nơi ở của vị học giả nổi tiếng Vương Hồng Sển. |
Căn nhà này (số 9/1 đường Nguyễn Thiện Thuật, phường 14, quận Bình Thạnh) nằm trên một khu đất cùng với những căn nhà trực thuộc bên ngoài khuôn viên nhà cổ do ông sở hữu đã từng được định giá xấp xỉ một ngàn lượng vàng ở thời điểm ông viết di bút trước khi mất (1996).
Do không có được người thừa kế đồng chí hướng về văn hóa và cũng do những khó khăn riêng của con trai mà ông đã đi đến quyết định hiến tặng cho nhà nước quản lý toàn bộ bộ sưu tập đồ cổ, sách quý, đồ gia dụng cổ trong ngôi nhà với lời đề nghị “Thành lập bảo tàng tư nhân mang tên Vương Hồng Sển, sách quý và cổ vật trưng bày tại chỗ, không được mang ra khỏi nhà” (di chúc công chứng ngày 27.6.1995). Ngoài ra, trong một di bút khác ông cũng có lời đề nghị Nhà nước chăm sóc, chu cấp cho 3 cháu nội của ông được ăn học thành tài và có một nơi để sinh sống.
Gần nửa thế kỷ sống ở ngôi nhà cổ Vân Đường Phủ, Vương Hồng Sển không chỉ bỏ nhiều công sức cho việc bài trí mà còn tạo dựng một phong cách sinh hoạt cho chính ông và các thành viên trong gia đình phù hợp với nét cổ xưa bên trong và bên ngoài ngôi nhà. Các tạp chí danh tiếng như Times, Newsweek… từng đến đây tìm hiểu, giới thiệu về ngôi nhà chứa đựng nhiều giá trị văn hóa này.
Để có thể thực hiện đúng tinh thần di nguyện của học giả Vương Hồng Sển, từ năm 1997 các cơ quan chức năng về văn hóa, tư pháp, địa chính của thành phố đã triển khai thực hiện các biện pháp kiểm kê, bảo vệ cổ vật và sách qúy của cụ Vương trước khi hoàn tất thủ tục ngôi nhà để làm nơi trưng bày, tổ chức cho công chúng tham quan.
Vào tháng 8.2003, UBND TP ban hành quyết định xếp hạng di tích cấp thành phố đối với nhà của cụ Vương Hồng Sển là “Di tích Kiến trúc nghệ thuật Nhà cổ dân dụng truyền thống”, nghiêm cấm mọi hoạt động xây dựng, khai thác trong những khu vực di tích đã khoanh vùng bảo vệ.
|
Học giả Vương Hồng Sển (giữa) tiếp các nhà báo nước ngoài tại Vân Đường Phủ. |
Nhà nước đã thực hiện đầy đủ trách nhiệm chu cấp tiền ăn học cho 3 cháu nội của cụ Vương đến khi các cháu qua 18 tuổi. Các cổ vật và sách quý của cụ Vương đã và đang được bảo quản ở bảo tàng và thư viện. Vậy thì, còn điều gì khiến cho Vân Đường Phủ - Di tích Kiến trúc nghệ thuật Nhà cổ dân dụng truyền thống độc đáo về văn hóa vật thể và phi vật thể không thể đi vào hoạt động như mong muốn của cụ Vương và những người yêu mến các giá trị văn hóa, từ đó đẩy di tích văn hóa quý giá này đến trước nguy cơ bị “mất”? Và, còn có thể làm gì để cứu vãn?
Tự hỏi thì xin tự trả lời trước, xem như là đề nghị của một công dân quan tâm đến các giá trị văn hóa.
Điều thứ nhất, nhà nước cần cấp ngay một chỗ ở có giá trị sinh sống (ở và khai thác thương mại được) cho các cháu nội của cụ Vương. Chỗ ở này đứng tên chung 3 chị em chứ không đứng tên riêng một ai, vì trên thực tế cụ Vương không có yêu cầu này. Việc giải quyết căn nhà này phải thể hiện được tinh thần: hậu duệ phải tôn trọng ý nguyện của cụ Vương - người chủ sở hữu khối tài sản “Dùng nhà cổ Vân Đường Phủ làm bảo tàng mang tên Vương Hồng Sển”. Mà, đã là bảo tàng thì phải tuân thủ các nguyên tắc của pháp luật, không một ai có thể vào ở trong đó.
|
Gian phụ ngôi nhà, phòng đọc sách và làm việc của cụ Vương lúc sinh thời được các con cháu dùng làm nơi sinh hoạt. |
Việc lưu giữ các di sản của tiền bối trong gia tộc cho đời sau và cho công chúng các thế hệ biết tới cũng là trách nhiệm của con cháu, không nên vì bất cứ lý do gì để đòi hỏi các quyền lợi thuần túy vật chất, theo cách phi pháp càng không thể, để làm tổn hại tới một di sản văn hóa mà cụ Vương dồn tâm huyết tạo dựng, mong muốn gìn giữ, phát huy và đã được nhà nước công nhận, thể hiện trong công văn của UBND TP số 780-CV-UB/VX ngày 1.4.1999 và quyết định số 140/2003/QĐ-UB ngày 5.8.2003.
Điều thứ hai, trong quá trình thực hiện điều thứ nhất, cơ quan chức năng về quản lý văn hóa cấp thành phố cần phối hợp với chính quyền địa phương triển khai thực hiện ngay trách nhiệm bảo vệ, quản lý ngôi nhà 9/1 Nguyễn Thiện Thuật theo Luật Di sản Văn hóa quy định, thể hiện trong quyết định của UBND TP số 140, ngày 5.8.2003.
Điều thứ ba, song song với thực hiện các điều trên, cơ quan chuyên môn của Sở Văn hóa - Thể thao khẩn trương chuẩn bị kế hoạch, phương án tổ chức trưng bày bên trong ngôi nhà và cảnh quan sân vườn trước và sau để khi đã hoàn tất các điều kiện cần thiết có thể đưa ngay Di tích Kiến trúc nghệ thuật Nhà cổ dân dụng truyền thống mang tên Vương Hồng Sển vào hoạt động, phấn đấu vào dịp 25 năm ngày mất của cụ Vương.
Trong khi tiếp tục chờ đợi các giải pháp nhằm cứu vãn nguy cơ “mất đi” một di sản quý đã được pháp luật bảo vệ bằng văn bản pháp lý, thì đành đối diện với nỗi buồn thực tại sau đây về “di tích Nhà Vương Hồng Sển”.
Nơi ấy giờ đây “là khu tạm cư của vài chục nhân khẩu xa lạ đến xâm chiếm, xây cất bát nháo bên trong di tích để ở và kinh doanh; là một “ổ” tệ nạn xã hội, nhập cư trái phép (công an từng bắt tại địa chỉ 9/1 Nguyễn Thiện Thuật, phường 14, quận Bình Thạnh vụ mua bán 1,08kg heroin). Nơi ấy giờ đây đang bị các chủ nợ của một trong các cháu nội của cụ Vương chiếm dụng, các tủ cổ chứa sách quý và các đồ vật gia dụng cổ đã bị thất thoát” (trích đơn xin cứu xét khẩn thiết của bà Vương Việt Hoa – cháu gọi cụ Vương là bác ruột, gửi UBND TP ngày 9.1.2019).
Chính quyền và cơ quan bảo vệ pháp luật ở địa phương có biết những hành vi vi phạm pháp luật đối với di tích đã được công nhận về pháp lý này không? Làm sao có thể tin là họ không biết? Và, đó chính là một câu chuyện buồn.
Cơ hội có thêm một nhà lưu niệm danh nhân đã bị bỏ qua!
Một câu chuyện buồn khác.
Năm nay là tròn 5 năm ngày mất và 99 năm ngày sinh của GS-TS. Trần Văn Khê - người mà cả cuộc đời đã chuyên chú tâm sức cho việc nghiên cứu và quảng bá âm nhạc truyền thống Việt Nam ở Pháp và khắp mọi nơi trên thế giới. Các chuyên đề nghiên cứu và đào tạo của ông về đờn ca tài tử, về cải lương Việt Nam trong đối sánh với các loại hình âm nhạc, kịch nghệ của các quốc gia châu Á (pansori của Triều Tiên, kinh kịch của Trung Quốc, noh và kabuki của Nhật Bản) đã được giới âm nhạc quốc tế đánh giá rất cao. Sự đánh giá đó đã góp phần đưa đến công nhận và vinh danh ở tầm mức thế giới các loại hình nhã nhạc cung đình Huế, không gian cồng chiêng Tây nguyên, ca trù, đờn ca tài tử...
Sau khi trở thành người Việt Nam đầu tiên được nhận bằng tiến sĩ văn chương ngành nhạc học hạng tối ưu tại Đại học Sorbonne (Pháp) năm 1958 với bản luận văn âm nhạc truyền thống Việt Nam, suốt 50 năm sau đó, Trần Văn Khê đã tự nhận lấy trách nhiệm nghiên cứu và giới thiệu nền âm nhạc dân tộc Việt Nam mà ông cho là “rất hay, rất đẹp” với bạn bè trên thế giới và trao truyền cho các thế hệ người Việt.
Tài năng và tâm huyết của Giáo sư Trần Văn Khê đã đưa ông đến vị trí đòi hỏi uy tín cao mới có thể được đề cử: nhiều năm là thành viên rồi Phó chủ tịch Hội đồng Quốc tế âm nhạc của UNESCO và 10 năm liền được tín nhiệm ở vai trò Chủ tịch ban tuyển chọn quốc tế của Diễn đàn âm nhạc châu Á.
Trên cơ sở tâm nguyện của Giáo sư Trần Văn Khê “được sống và làm việc những năm cuối đời tại đất nước”, Sở Văn hóa - Thông tin TP đã khởi thảo Đề án Nhà Trần Văn Khê vào tháng 11.2003, đã lập một biên bản mang tính pháp lý giữa Giáo sư và Sở Văn hóa - Thông tin TP vào ngày 14.5.2004. Theo các căn cứ đó, nhà nước đã bố trí ngôi nhà 32 Huỳnh Đình Hai để làm nơi sống và làm việc cho Giáo sư Trần Văn Khê những năm cuối đời, quản lý theo chế độ công sản.
|
Căn nhà số 32 đường Huỳnh Đình Hai, quận Bình Thạnh là nơi cố Giáo sư Trần Văn Khê ở vào những ngày cuối đời. |
Năm 2006, Giáo sư Trần Văn Khê đã chuyển về ở hẳn tại ngôi nhà 32 Huỳnh Đình Hai và tại đây hàng loạt hoạt động văn hóa mà ông là linh hồn đã được tổ chức khiến cho ngôi nhà vượt ra khỏi cái tầm của một tư gia.
Toàn bộ không gian đẹp nhất của ngôi nhà đã được bố trí làm nơi tiếp đón mọi người. Những nhân vật nổi tiếng trong và ngoài nước, những học trò cũ và mới, những bạn bè tri âm tri kỷ, những người dân bình thường đều đã đến đây giao lưu, đàm đạo với vị giáo sư nổi tiếng tài ba. Tại đây, đã diễn ra gần 100 buổi sinh hoạt về đàn tranh, đàn đá, hát bội, vọng cổ, ca trù, múa bóng rỗi, nghệ thuật ngâm thơ truyền thống Việt Nam...
Thư viện Trần Văn Khê đã được khánh thành ở tầng trên của nhà sau vào năm 2012 để phục vụ những ai cần nghiên cứu. Thư viện là kết quả kiểm định, phân loại từ 435 kiện sách và hiện vật âm nhạc quý (sổ ghi chép, đĩa và băng ghi âm, nhạc cụ các loại gắn liền với sự nghiệp âm nhạc của Trần Văn Khê) mà Giáo sư Trần Văn Khê chuyển từ Pháp về, trong đó có hơn 10.000 đầu sách, tạp chí liên quan đến nghiên cứu, giới thiệu âm nhạc thế giới và âm nhạc truyền thống Việt Nam.
|
Những "báu vật" mà Giáo sư Trần Văn Khê gắn kết cả đời và dành tâm huyết để nghiên cứu. |
Ngôi nhà chứa đầy những hiện vật cả đời, những kỷ niệm ấm áp và sống động gắn với những năm tháng cuối đời Trần Văn Khê tại Việt Nam đã hiện ra dáng dấp mà nó cần có khi Đề án Nhà Trần Văn Khê được Sở Văn hóa - Thông tin TP phác thảo gần 10 năm về trước.
|
Thấy trò Trần Văn Khê và Nguyễn Thị Hải Phượng hòa tấu tại nhà 32 Huỳnh Đình Hai. |
Ngôi nhà mà Giáo sư Trần Văn Khê mơ ước trong di nguyện của mình “Khi tôi vĩnh viễn ra đi, ngôi nhà này với tất cả hiện vật gắn với tôi sẽ được sử dụng để làm Nhà lưu niệm Trần Văn Khê, tất cả đều giao lại cho ban quản lý nhà lưu niệm giữ để phục vụ cộng đồng”.
Ngôi nhà ấy, đầy đủ điều kiện để trở thành một nhà lưu niệm danh nhân gắn với giá trị di sản âm nhạc dân tộc, kể từ sau ngày ông vĩnh viễn ra đi (2015) đã có những biểu hiện rõ rệt: không có cơ hội ấy nữa.
Vì sao ư? Người viết bài này không thể trả lời. Chỉ có thể buồn thôi.
___________________________________________________________