Thứ Ba, 25 tháng 10, 2016

Chuyện viết sách Xứ Trầm Hương


  • Quách Tấn

Tập “Đôi nét về tỉnh Khánh Hòa”
Mặc dù gồm đủ các mục cần thiết: Lịch sử, Địa lý, Thắng cảnh, Cổ tích, Nhân vật..., Đôi nét về tỉnh Khánh Hòa chưa có thể gọi là một địa phương chí, vì quá sơ lược.
Đó là một bài diễn văn, nói làm hai buổi, chỉ dày 30 trang giấy đánh máy hàng hẹp.
Nguyên năm 1962, trở lại ngành hành chánh và phục vụ tại tòa hành chánh tỉnh Khánh Hòa ở Nha Trang, tôi phụ trách soạn thảo địa phương chí cho chánh quyền địa phương. Vốn ở Khánh Hòa đã lâu năm, công việc ấy đối với tôi không lấy gì làm khó lắm. Huống nữa địa phương chí viết theo kiểu hành chánh thì chẳng cần phải nhiều tài liệu. Nhưng việc viết địa phương chí, tòa hành chánh Khánh Hòa đã giao cho một nhân viên viết từ ngày người Pháp giao quyền lại cho người Việt, ngót bao nhiêu năm qua mà chưa có được chữ nào, thì sao mình lại làm tài khéo tài khôn viết vội.
Viết xong trong một thời gian ngắn đã gây ác cảm với người “tiền nhiệm” lại làm cho bọn có quyền tưởng lầm rằng “ai viết cũng được”. Thêm nữa sao lại không nhân dịp tìm thêm một số tài liệu cho mình.
Tôi bèn đề nghị ông Tỉnh trưởng cấp phương tiện để đến từng quận khảo cứu tường tận rồi sẽ viết. Ông Tỉnh chấp thuận, nhưng hai ông phó cho là tốn công và mất thì giờ. Để có tài liệu viết, họ bảo tôi đưa ra những gì cần biết, rồi sức cho các quận lo tìm hiểu và phúc trình...
Tháng ngày qua... và tôi đợi...
Thời bấy giờ có phong trào học tập chánh trị. Mỗi tuần các công chức nghỉ việc trong 2 giờ để học tập. Mỗi cơ quan cử ra một ban thuyết trình. Tôi bị dính vào ban thuyết trình chung của thị xã Nha Trang. Nói mãi về chính trị ai nấy đều ngấy cả người. Tôi đề nghị thỉnh thoảng đổi món. Toàn ban đồng ý và tôi phải thực hiện trước tiên...
Sẵn có tài liệu trong tay [1], tôi bèn lấy tỉnh Khánh Hòa làm đề tài nói chuyện.
Tôi mất ngót một tuần nhật để viết bài - viết trong những giờ rảnh ở sở.
Lập ý, cấu tứ, bố cục xong, tôi ngồi vào bàn máy đánh chữ với bản đồ trước mặt, rồi... lốc cốc, lốc cốc...
Lắm lúc nguồn văn đang tuôn trào thì ông Tỉnh sai làm việc này, ông phó kêu hỏi việc nọ, hoặc ông ty nhờ chút việc kia, làm tôi cụt hứng. Khi trở lại cùng văn chương, phải vét phải bước giây lâu mới tìm được mạch trở lại... Những buổi vào làm việc được vài ba giờ liên tiếp, không bị gián đoạn, thì thích thú vô ngần. Tiếng máy đánh chữ của tôi làm át hẳn tiếng máy đánh chữ và tiếng nói chuyện ở chung quanh. Tôi có cảm giác tôi là một nhạc sĩ ngồi đánh dương cầm (piano) và đến khi tôi tự hỏi: “Tiếng máy chữ giúp cho nguồn văn mình chảy dễ dàng hay nguồn văn mình làm tiếng máy chữ kêu êm ái”?
Ở nhà làm việc hay lúc làm việc trong một phòng riêng ở Ty Kiến Thiết, tôi không có những cảm giác ấy, ý nghĩ ấy. Tôi chắc ở đây, sức cố gắng đánh bật những tiếng ồn ào chung quanh, đã gây ra để làm gia vị cho công việc sáng tác không nhằm nơi...
Các nhà tu thiền ngồi nhập định ở giữa chợ chắc hưởng nhiều lạc thú hơn ngồi nơi thanh vắng? Và có lẽ hứng vị của các nhà tu lúc ngồi thiền cũng như mình lúc sáng tác mỗi khi mỗi khác, cho nên nhập định mãi, sáng tác mãi, mà không bao giờ chán, không bao giờ nhàm...
Một đôi bạn đồng sự thấy tôi làm việc chăm chỉ, đến ghẹo để mua vui. Nhiều khi rất bực. Song xét kỹ bực bội không có lợi chi hết, tôi bèn “tương kế tựu kế” tìm ngay chút ít vui trên thú vui nghịch ngợm của anh em...
Một hôm một ông bạn đến đứng xem tôi làm việc thấy bên những cảnh núi sông tôi có điểm xuyết một vài câu ca dao địa phương, hay một bài hát do tôi soạn nhưng giấu tên, bèn nói:
- Các nhà thơ đến đâu làm hoen ố phong cảnh đến đó. Hèn chi ca dao có câu:
“Hòn đất mà biết nói năng
Thì mồm thi sĩ hàm răng không còn.”
Nghe nói, ngước lên nhìn, tôi không ngăn nổi trận cười bột phát. Ông bạn ngạc nhiên hỏi:
- Anh cười gì, mà coi bộ thích thú như thế?
- Tôi cười anh là thi sĩ mà không tự biết.
- Câu ca kia đâu phải của tôi.
- Tố giác anh đâu phải câu ca, mà chính là hàm răng vàng anh vậy.
Lại một bận khác, một ông bạn khác đến xem bài. Lúc ấy tôi vừa viết xong con sông Cù ở Nha Trang và bước sang con sông Dinh ở Ninh Hòa. Tôi mới viết đến ba ngọn nguồn của con sông và đương nghĩ một bài ca trang điểm cho phong cảnh nhưng chưa tìm ra ý. Ông bạn xem bài ca về con sông Nha Trang:
Sông Nha Trang, cát vàng nước lục
Thảnh thơi con cá đục
Lội dọc lội ngang...
Đã nguyền cùng em giữ dạ đá vàng,
Quý chi tách cà phê đen, ly sữa bò trắng,
Anh nỡ phụ phàng nước non.
hỏi tôi:
- Sông Nha Trang có thơ, sông Ninh Hòa chắc cũng có chứ?
Ông bạn là người quen biết cũ. Trước kia bị tình phụ thường dùng rượu để giải sầu. Nghe ông bạn hỏi, tôi liền nảy tứ, đáp:
- Sông Dinh mà không có thơ thì chợ Ninh Hòa hết người đến uống rượu. Xem đây...
Vừa dứt lời, tôi đánh lốc cốc:
Sông Dinh có ba ngọn nguồn
Anh nhớ em băng đèo vượt suối,
Nhưng không biết đường đến thăm em!
Ghé vô chợ Ninh Hòa
Mua một xâu nem
Một chai rượu trắng,
Anh uống cho say mèm để quên nỗi nhớ nhung...
Rượu không say,
Nghĩ lại ngại ngùng
Con gái 12 bến nước,
Biết thủy chung bến nào?
Nhân câu chuyện xưa của ông bạn, mà kéo được nem và rượu là món đặc biệt ở Ninh Hòa vào để trang điểm cho sông Dinh, thì thật là thú vị!
Tôi nghĩ nếu không có ai đến, hoặc có mà là một người khác chớ không phải ông bạn say rượu vì tình kia, thì liệu có đem được nem được rượu vào làm gia vị cho cảnh sông Dinh không? Chắc là không... Cho nên ngoài mình ra, ai hiểu vì sao lại có câu “vui vui” như thế[2].
Thánh Thán nói: “Khi ta viết văn có con ruồi đậu trước ngòi bút. Khi người xem văn ta không thấy con ruồi đậu trước ngòi bút thì làm sao hiểu được ta[3] là nói về những trường hợp như trên...
Những ý nghĩ “lạc đề” thế ấy thường nảy ra trong khi viết lách. Thường thường, tôi phải ngừng viết, để ghi chép kẻo quên, nếu thấy hay hay... Đó là vài hột đậu phộng rang, vài cọng rau giá hay một hớp canh rau tập tàng... điểm vào bữa ăn thịnh soạn..., chúng chỉ làm cho thêm thích khẩu khi trở lại dùng những món ăn chính.
Viết Đôi nét về tỉnh Khánh Hòa tôi gặp được một số đậu phộng rang và rau giá... mà hai chuyện trên là đại biểu xứng đáng...
Đến đoạn cuối, để chấm dứt cho ý vị, tôi dùng đến những món ăn đặc biệt của Khánh Hòa xào nấu thành ca dao:
Thơm Vạn Giã ngọt đà quá ngọt [4]
Mía Phú Ân cái đọt cũng ngon [5]
Hỡi người chưa vợ chưa con
Vào đây chung gánh nước non với mình.
Ở Khánh Hòa có mấy món ăn đã nhập làng tục ngữ là:
Yến sào Hòn Nội, vịt lội Ninh Hòa
Tôm hùm Bình Ba, nai khô Diên Khánh [6].
Nhân thời Pháp thuộc lên Võ Cạnh chơi, được ăn một bữa cháo cá tràu ngon quá sức ngon. Từ ấy tôi không còn thấy cá tràu nơi nào bì kịp. Lại sau khi hồi cư về Nha Trang, nhà tôi mua được một mớ sò huyết mà người bán nói rằng ở Thủy Triều mới đem ra. Tôi ăn rất khoái khẩu - nên tôi bèn nhập ngay hai món nầy vào bốn món kia, gia vị thêm chút tình của mình thành một bài hát:
Yến sào Hòn Nội,
Vịt lội Ninh Hòa
Tôm hùm Bình Ba
Nai khô Diên Khánh
Cá tràu Võ Cạnh
Sò huyết Thủy Triều
Đời anh cay đắng đã nhiều
Về đây ngọt sớm ngon chiều với em.
Đến ngày đem ra trình làng, tôi nhờ một số văn nghệ sĩ Nha Trang phụ trợ việc ngâm hát những thơ, ca theo nhịp đàn sáo như kỳ diễn thuyết về Hàn Mặc Tử tại Saigon.
Cuộc nói chuyện tổ chức tại rạp chiếu bóng Tân Tân. Thính giả hầu hết là công chức (giáo viên, thư ký, ty, sở, trưởng, chủ, sự...) và các nhân sĩ trong thị xã Nha Trang. Cuộc nói chuyện được hoan nghênh nhiệt liệt.
Ông Hiệu trưởng trường trung học Võ Tánh nói:
- Địa lý là món khô khan dễ chán mà anh trình bày thế ấy, thì thật chẳng khác chiếu phim phong cảnh. Rước anh dạy địa dư thì tuyệt.
Tôi cười:
- Đừng bày, trước đây tôi đã bị phê bình rằng đem tánh chất lãng mạn trộn cả vào môn địa lý, và bị đuổi ra khỏi trường rồi. Đâu dám “tái phạm”.
Buổi nói chuyện được ghi âm và được phổ biến trên đài phát thanh làm vui cho đồng bào địa phương không ít.
Ông bạn già Trần Thúc Lâm ở xóm Máy Nước cạnh đài phát thanh Nha Trang, đến bảo:
- Hòn Trại Thủy ở đâu? Tôi hỏi không ai biết hết. Họ nói ở trong thành phố Nha Trang chỉ có núi Sinh Trung chớ không làm gì có núi Trại Thủy. Có người bảo rằng anh “đẻ” ra, nên núi chỉ nằm trong tưởng tượng.
Tôi phá lên cười:
- Vậy xóm Máy Nước của anh cũng do tôi “đẻ” ra hay sao? Bởi hòn Trại Thủy nằm ngay trước mặt nhà anh.
- Đó là hòn núi Chùa chớ.
- Sẽ có người cải đó là hòn Xưởng hoặc hòn Kho vì xưa kia có kho và xưởng ở núi.
- Sao lại nhiều tên thế?
- Thì cũng như người trợ bút cho Lành Mạnh, mỗi kỳ viết bốn năm bài mà phải lấy bút hiệu nào Cổ Bàn Nhân, nào Thi Nại Thị, nào Cù Huân Khách, nào Định Phong...
- Thế thì cũng có phần rắc rối.
- Tôi đã nói rõ vì sao người ta lại gọi là Trại Thủy, là Hòn Kho, Hòn Xưởng, mà cũng đã nói rõ nó nằm ở nơi nào. Tại người nghe không để ý nên sanh ra thắc mắc. Nhà văn thường bị độc giả rầy oan là vậy đó...
Thượng tọa Thích Trí Thủ nói cùng đệ tử là Trần Đình Lạc:
- Ăn nằm với núi đã chín mười năm, mãi nay nhờ bác Quách mình mới biết tên là Trại Thủy!
Như vậy bài Đôi nét về tỉnh Khánh Hòa cũng gây được ít nhiều ảnh hưởng trong quần chúng.
Năm 1963, nhân làm Tổng giám thị Trung tâm tu nghiệp cán bộ Khánh Hòa tôi cho in ronéo bài diễn văn ấy phát cho anh em làm tài liệu tham khảo khi đi phục vụ nhân dân. Tôi gởi cho các bạn quen xa gần để mua vui. Hiếu Chân lấy làm thích thú, đăng lời cảm tạ và hẹn sẽ nói về công phu bài ấy, trong số Tự Do ra ngày 18-4-1963. Hiếu Chân chưa kịp viết bài thì ông bạn Phan Ngọc Châu, giáo sư Việt Văn và sinh ngữ ở Saigon gởi bài phê bình đến đăng ở số Tự Do ra ngày 21-7-1963, Phan quân tán thưởng nhiều điểm.
Còn Nguyễn Ang Ca thì lấy trọn bài đem vào thiên phóng sự Miền Trung đăng trong Tiếng Chuông, tháng 4-1963. Họ Nguyễn chỉ mào đầu vài câu rằng ra Nha Trang gặp tôi và được tôi tặng nhiều tài liệu về Khánh Hòa, rồi cắt từng khúc bài của tôi, đem y nguyên văn vào bài của mình mà không để trong vòng kép(“...”) cho rõ rằng anh ta trích của tôi. Tôi viết thư phản đối. Anh ta đăng bài công bố rằng phần nhiều tài liệu trong bài phóng sự là của tôi, chớ không nói những đoạn nào là của tôi (thỉnh thoảng có chen năm ba câu của anh ta vào bài của tôi...). Trong khi tặng Đôi nét về tỉnh Khánh Hòa tôi lại còn cho mượn một phiến ảnh chụp cảnh hốt cốt Hàn Mặc Tử. Anh ta đem vào Saigon làm bản kẽm in vào đoạn nói về Quy Nhơn song không cẩn thận làm mất phứt!! Tôi bảo rằng anh ta cố ý đoạt, anh ta lấy danh dự thề rằng không có tà tâm. Tôi đành chịu thiệt!!!
Tôi không ngờ một người có tên tuổi trong làng báo mà thiếu thận trọng đến thế. Tôi chợt nhớ đến lời nói của Tân Việt năm 1958 khi mới gặp: “Anh nên cẩn thận, chớ nên đưa bản thảo cho các nhà văn nhà báo xem. Nhiều người không được liêm chính”.
Nhưng rồi tôi lại nhớ đến lời của ông bạn Nguyễn Đồng: “Văn mình có giá trị người ta mới ăn cắp. Chớ ai lấy trộm giẻ rách làm gì”.
Tôi cười mà bỏ qua.
Rồi nhận thấy Đôi nét về tỉnh Khánh Hòa có ít nhiều giá trị, tôi định sẽ bổ túc các mục còn thiếu, các cảnh còn sót để làm thành một phương pháp diệt phiền não.
Thật vậy. Chẳng lúc nào tâm hồn tôi được thanh thản bằng lúc làm thơ viết văn.
Trước kia tôi tưởng chỉ làm thơ mới đưa được tâm hồn ra ngoài và lên trên những phiền toái của cuộc sống hàng ngày, chỉ làm thơ mới khơi vợi được những gì tích tụ, những gì ấp ủ... trong lòng. Nhưng từ khi quen với văn thì nhận thấy viết văn cũng có hiệu quả như làm thơ. Chỉ khác một điều là viết văn phải ngồi và mất công viết. Song lại được cái thú là “được mỏi tay mỏi lưng phải đi nằm cho hết mỏi”. Không mỏi mà đi nằm đâu có thú bằng mỏi mà đi nằm. Cũng như không đói mà ăn đâu có ngon bằng đói mà ăn.
Như thế là: viết văn làm thơ đã thú mà lại còn tìm được thích thú trong thú làm thơ viết văn. Thành ra thú sanh thú, thú cha, thú con, thú cháu... vô tận vô cùng...
Bởi vậy nên viết mãi không chán.
Cực chẳng đã mới nghỉ viết.

Xứ Trầm Hương
Xứ Trầm Hương là “Đôi nét về tỉnh Khánh Hòa” bổ túc và nhuận chính.
Đôi nét về tỉnh Khánh Hòa” hoài thai từ thời Pháp thuộc lúc tôi còn làm việc tại tòa sứ Nha Trang (1935-1945). Lúc ấy thỉnh thoảng theo làm thông ngôn cho các nhà du lịch và khảo cổ ngoại quốc, tôi biết được thêm nhiều thắng cảnh cổ tích ở những nơi xa vắng, ngoài những danh thắng gần thành phố Nha Trang. Tôi lại được các vị tiền bối như cụ cử Phan Bá Vỹ, cụ đề Ngô Văn Nhượng, nhà Nho Trần Khắc Thành... kể cho nghe nhiều chuyện ly kỳ, nhiều tích lý thú.
Nhờ đó mà tôi viết “Đôi nét về tỉnh Khánh Hòa”.
Vì là một bài thuyết trình cho nên chỉ viết những nét đại khái. Tôi cũng có ý muốn viết kỹ lại kẻo những tài liệu đã thu thập được rủi mất đi uổng. Nhưng chưa có dịp mà cũng chưa thấy hứng.
Nhân tôi có gởi tặng Nguyễn Hiến Lê một bản “Đôi nét về tỉnh Khánh Hòa” và nói qua trường hợp soạn thảo. Nguyễn quân khuyên nên viết kỹ lại. Võ Hồng và Châu Hải Kỳ cũng đồng ý cùng Nguyễn Hiến Lê. Võ quân bảo:
- Cảnh thiên nhiên dù có thay đổi vẫn còn dấu tích, chớ những câu chuyện liên quan hoặc nhiều hoặc ít đến Khánh Hòa, hiện nay đã ít người biết rồi, nếu anh không viết lại thì sau anh e không còn ai biết để viết.
Nguồn hứng vừa khơi thì tôi lại gặp Hòa thượng Thích Trí Thủ và Đại đức Trừng San. Hòa thượng hứa ủng hộ việc xuất bản. Đại đức cho mượn xe và hướng dẫn đi thăm các ngôi chùa cổ và đôi cảnh cần thăm lại và có thể đến thăm.
Trong lúc đi tôi lại thu thập thêm được nhiều tài liệu quý báu.
Những sự kiện ấy kích thích tôi hăng hái viết về Khánh Hòa. Tôi tạm gác “Bóng Ngày Qua”.
Sau khi đi các quận “tạm đủ” rồi, tôi lo viết. Tôi khởi sự vào đầu tháng 9 năm 1968, và quyết cố gắng hoàn thành trước tháng 12, hầu kịp xuất bản trong tết Kỷ Dậu để làm quà ăn mừng tuần hoa giáp của tôi.
Nhưng trời chẳng chiều người! Vừa viết xong được 3/4 thì bị ngọa bệnh.
Nguyên tôi đau nội trĩ đã gần 40 năm. Nhờ giữ vệ sinh nên “quân bất lương” không có cơ quấy phá. Không biết có phải vì tôi ngồi nhiều quá hay vì “kỳ hạn đã đến” mà mạch lương (fistules anales) trổ ra. Nghe tin bác sĩ Tân-Tây-Lan ở nhà thương Quy Nhơn mổ giỏi, tôi bèn ra Quy Nhơn.
Mổ ngày 26-12-1968.
Cuối tháng 1 năm 1969, tôi về Nha Trang định ăn Tết xong trở ra trị cho thật lành. Nhưng thấy vết mổ mỗi ngày mỗi cạn dần nên nằm nhà băng bó. Gần hai tháng rưỡi trôi qua, tưởng bệnh đã lành, ngồi viết tiếp về Khánh Hòa. Mới mấy hôm bệnh trở phải ra Quy Nhơn trở lại (15-4-1969).
Ra Quy Nhơn bị mổ đi mổ lại đến 5 lần. Phải nằm bệnh từ nửa tháng 4 đến nửa tháng 6-1969 mới về Nha Trang trở lại.
Sáu tháng trôi xuôi ! (12-68 - 6-69)
Khi về Nha Trang thì thấy tập địa phương chí “Non nước Khánh Hòa” của ông Nguyễn Đình Tư đã bán ở các tiệm sách.
Ông Tư trước kia làm tại Ty Điền địa Nha Trang, cùng tôi là chỗ quen biết. Tôi nghe ông ta viết tập Non nước Khánh Hòa đã lâu. Nhưng biết rằng ông ta viết theo lối viết “Non nước Phú Yên”, nên tôi không ngại bị dẫm chân nhau. Nhưng nghe sách ông ta đã ra, lòng tôi không khỏi nao nức muốn đọc. Đọc xong thật mừng vì quả như lời tôi đã đoán. Song lại có hơi bực vì ông ta đã lấy một số “ca dao” trong “Đôi nét về tỉnh Khánh Hòa”, đã không ghi xuất xứ lại còn sửa nhiều chỗ để tỏ rằng tự mình đã tìm ra chớ không phải mượn của tôi. Những câu ấy vốn là của tôi đặt ra, ai biết đâu mà truyền cho ông ấy? [7]
Anh Trần Thúc Lâm cùng mấy anh em ký giả quen biết ở Nha Trang muốn viết bài chỉ trích. Sợ có người hiểu lầm rằng tôi đã xúi anh em vì ganh tị, nên tôi can:
- Không có gì quan trọng, cứ để sách tôi ra đời, bạn đọc sẽ rõ trắng đen.
Rồi tôi tiếp tục viết Khánh Hòa bị bỏ dỡ và đã hoàn tất sau ba tuần nhật cần cù.
Nhận thấy tên “Đôi nét về tỉnh Khánh Hòa” không gọn và tên “Non nước Khánh Hòa” ông Tư đã dùng trùng, tôi bèn lấy tên:  XỨ TRẦM HƯƠNG.
Vì Khánh Hòa có nhiều trầm hương nhất các tỉnh miền Trung, và tôi có bài ca:
Khánh Hòa là Xứ Trầm Hương
Non cao biển rộng người thương đi về
Yến sào ngon ngọt tình quê
Sông sâu đá tạc lời thề nước non.
            Sau khi viết xong bài tựa nói rõ tính cách và mục đích Xứ Trầm Hương. Tôi đem lên Viện Phật học Nha Trang trao cho Hòa thượng Thích Trí Thủ để Hòa thượng đem vào Saigon in.
Công việc yên xong vào tiết Tiểu Thử, năm Kỷ Dậu, tức trung tuần tháng 7 năm 1969.
*
Viết Xứ Trầm Hương tôi viết theo lối hồi ký. Nghĩa là tôi ghi lại những gì tôi thấy, tôi nghe, tôi cảm trong mấy mươi năm sống cùng non nước Khánh Hòa. Tôi chú trọng về thắng cảnh cổ tích, giai thoại huyền thoại là những cái dễ mất. Còn những gì thuộc về địa lý thuần túy là những cái thường còn thì nhượng cho các nhà khảo cứu, các nhà địa lý học chuyên môn.
Do đó tôi thích thú khi viết Xứ Trầm Hương cũng như khi viết “Bóng Ngày Qua”: Tôi viết lòng tôi, tôi sống lại.
Tôi sống lại và làm sống lại cho Khánh Hòa nhiều “cái” đã chết hẳn trên mặt đất và trong lòng người địa phương. Nói là chết trong lòng người địa phương kể cũng oan, vì người hiện thời đâu phải người cựu thời. Các vị phụ lão đều qua đời hết. Anh chị em thanh niên bị cái “mới” lôi cuốn, ít người nghĩ đến những “cái cũ” của cha ông, bởi những cái cũ ấy không đem lại những ích lợi trực tiếp, những ích lợi hiện tiền. Làm sống lại những “cái vô ích” ấy, tôi lấy làm khoái. Tôi khoái riêng cùng tôi. Và tôi cảm thấy “Xứ Trầm Hương” là một cõi riêng biệt của tôi, và tôi làm một đại biểu của người cổ Khánh Hòa lãnh thiên chức gìn giữ những “cái” đã mất và sắp mất trước làn sóng ngoại lai.
Viết Xứ Trầm Hương tôi “viết” bằng máy đánh chữ.
Làm xong dàn bài trong trí, tôi ngồi vào bàn máy là “viết” một hơi. Ý theo tiếng lóc cóc của máy mà nhảy ra. Lời theo ý mà hình thành. Câu cú suông sẻ càng tốt, què quặc cũng mặc. Viết xong một đoạn, siêng thì đọc lại, nhác thì cho qua...
Thật chẳng khác viết hồi ký!
Bởi mục đích chính là gởi gắm chút lòng, tiêu diệt phiền não, chớ đâu phải “làm văn”.
Tuy vậy, tánh thận trọng đã sẵn có trong người, sức uẩn nhưỡng đã nuôi sẵn từ trước, cho nên tự tin rằng không có sự bừa bãi trong ý cũng như ngoài lời.
Khi mới bắt đầu viết, tôi tưởng sách chỉ dày độ trăm rưỡi trang là nhiều. Vì “Đôi nét về tỉnh Khánh Hòa” chỉ có vài chục trương đánh máy. Không ngờ Xứ Trầm Hương dày đến trên 300 trang đánh máy. Dày ngang “Nước non Bình Định”.
Viết về non sông, có cái vui mà đôi khi cũng có cái buồn. Viết về Bình Định tôi buồn cho tỉnh nhà bị mất cây cầy và cây ké ở đèo An Khê. Hai cây nầy là di tích lịch sử . Chúng đã chứng kiến lễ tế cờ của 3 vua Tây Sơn. Cho nên phương ngôn có câu: “Cây ké phất cờ, cây cầy khỉ cổ”. Thời Ngô Đình Diệm cán bộ địa phương đã hạ cây ké để lấy gỗ làm trụ sở và gần đây cây cầy đã bị thuốc khai quang của Mỹ làm rụng lá đen cành. Sống thác thế nào chưa rõ! Viết về Khánh Hòa, tôi buồn về tấm bia Võ Cạnh.
Võ Cạnh là một làng thuộc quận Vĩnh Xương giáp giới quận Diên Khánh và nằm phía Nam Quốc lộ số 1.
Ở đó có một tấm bia bằng đá xanh, cao lớn, khắc chữ “Khoa - Đẩu”. Theo các nhà khảo cổ thì bia nầy dựng từ thế kỷ thứ II, để làm biên giới của Phù Nam và Chiêm Thành.
Bia nằm dưới một cây duối lâu đời, nửa ló lên mặt đất, nửa chôn dưới bùn ruộng. Suốt bao nhiêu đời ít ai để ý.
Năm 1936, có một nhà khảo cổ đến Nha Trang. Nhờ ông học sanh Nguyễn Tấn ở Võ Cạnh, tục gọi là Học Bảy chỉ điểm, nhà khảo cổ đến xem và quả quyết là tấm bia phân ranh giới của Phù Nam và Chiêm Thành. Ông sứ Lavigne định đem bia về tòa sứ Nha Trang. Nhưng chưa kịp thực hiện thì bị đổi, ông sứ Destenay đến thế. Tôi “làm tài khéo tài khôn” vào nhắc, bị cự cho một mớ vuốt mặt không kịp! Từ ấy không còn ai nghĩ đến tấm bia.
Khi viết Xứ Trầm Hương, tôi nhớ đến bia ấy... Nhưng ông Học Bảy đã qua đời, quang cảnh trong làng lại có nhiều sự thay đổi, tôi đi tìm mấy bận không còn thấy cây duối cổ ở chỗ nào! nhờ người con ông Học Sanh là anh Ngộ tìm dùm, cũng không biết nơi đâu là nơi có tấm bia và cây duối! Trên 30 năm rồi, cây duối làm gì còn sống,bia đá chắc gì còn vùi lấp để đợi thiện duyên mà trồi lên.[8]
Ở các nước văn minh, các cổ vật được bảo tồn trân trọng. Ở nước mình chánh quyền chỉ nghĩ đến những cái mới của nước người, phần đông nhân dân cũng không có lòng háo cổ. Thành thử cổ tích của nước nhà bị tàn rụng lần lần. Nếu tình hình hỗn loạn cứ kéo dài thì lúc thái bình e người Việt Nam sẽ trở thành một dân tộc mới bắt đầu dựng nước. Trong nước sẽ không còn một mảy may gì chứng tỏ rằng mình có một nền văn hiến bốn nghìn năm!
Lắm lúc thật là buồn!
Cầu may vớt vát được chút nào hay chút nấy, tôi ghi chép tất cả những gì tôi thấy tôi nghe. Dù là công dã tràng, công Tinh Vệ tôi cũng tự thấy được an ủi ít nhiều.
Cho nên khi làm việc văn chương, tôi thấy tôi sống, và tự cho mình sống có ích, ít nhất là cho bản thân. Ngày tháng trôi qua mình không biết, nếu biết cũng không tiếc bởi đã dùng làm việc cho văn chương, cho đời sống: Thì giờ không mất.
(Trích hồi ký Bóng Ngày Qua).



[1] Trong bụng thì đúng hơn.
[2] Đây là một trong bao nhiêu trường hợp khác.
[3] Chỉ nhớ đại khái.
[4] Khách đi đường thường bảo nhau rằng thơm có hai nơi ngon nhất là “Nhất Tam Kỳ, nhì Vạn Giã”.
[5] Phú Ân ở quận Diên Khánh.
[6] Xưa kia Khánh Dương thuộc về Ban Mê Thuột, nên Diên Khánh nổi tiếng khô nai ở Khánh Hòa. Từ khi Khánh Dương thuộc Khánh Hòa thì người “vi thiên” chỉ còn biết có Khánh Dương.
[7] Đôi nét về tỉnh Khánh Hòa đã được phổ biến bằng ronéo và trên đài phát thanh Nha Trang.
[8] Hiện nay bia Võ Cạnh tồn trữ tại Viện Bảo tàng lịch sử Hà Nội. Xem phụ lục.