- Tâm Nhiên
Ảnh: Mai Lĩnh |
Hữu
vi pháp hiện trùng trùng
Như
huyễn như bọt nước tung vỡ rồi
Như
ánh chớp như sương rơi
Tất
cả vạn pháp trong vũ trụ như nhật nguyệt, rừng núi, biển sông, con người… đều
như huyễn mộng bọt nước, như chớp lóe sương rơi. Hãy quán tưởng thường xuyên
như vậy. Một khi thấy rõ tận tường như thế là thể nhập tự tánh Không của vạn hữu
để xa lìa mọi cố chấp tham đắm, bám víu dựa nương:
Nương
âm thanh sắc tướng
Để
cầu thấy Phật Đà
Kẻ
ấy hành tà đạo
Chẳng
bao giờ thấy ta.
Ảnh: Mai Lĩnh |
Nếu
người muốn biết rõ
Chư
Phật khắp ba đời
Hãy
quán pháp giới tánh
Đều
do tâm tạo thôi.
Ơi
chao ! Hết thảy mọi cảnh giới Phật ma, thánh phàm, thiện ác, khổ vui… chỉ một
bài thơ này thôi là bao gồm đầy đủ toàn diện rồi. Pháp giới trùng trùng vô tận,
nhưng tựu trung cũng đều luân lưu trong mười pháp giới : Phật, Bồ tát, Duyên
giác, Thanh văn, Trời, Người, A tu la, Ngạ quỷ, Súc sanh, Địa ngục, vốn chẳng
có tự thể, chẳng có tự tánh. Tất cả đều do một tâm niệm của mình tạo ra mà
thôi. Nói đến cái tâm của chúng ta cũng như hư không chẳng ngằn mé, vốn là
thanh tịnh trong sáng, chẳng có hình dạng, chẳng có nơi chốn, vốn là bất sanh bất
diệt, bất động bất biến. Tuy bất biến mà cũng tùy duyên, vì tùy duyên mà sinh động,
linh hoạt và sáng tạo vô cùng. Thong dong trên cung cách khoan hòa độ lượng, Thế
Tôn ôn tồn tiếp tục đọc thơ khai thị vi diệu nghĩa tuyệt trần:
Nếu
người muốn biết cảnh giới Phật
Ý
căn thanh tịnh như hư không
Xa
lìa vọng tưởng và chấp thủ
Thì
tâm vô ngại giữa trần hồng.
Cảnh
giới Phật là gì? Đó là cảnh giới bất khả tư nghì, không thể lý giải chi được,
trừ khi mình chứng ngộ. Tuy nhiên cũng có thể hiểu và thấy ra thật tướng của
muôn vạn pháp là tánh Không, vốn không sinh cũng không diệt, chẳng đến cũng chẳng
đi, thấy một là tất cả, tất cả là một, thấy vui buồn, sướng khổ, được mất, hơn
thua, có không, sống chết… đều vô ngại, tự tại thì đấy chính là cảnh giới Phật
vậy. Do đó, cảnh giới Phật luôn luôn hiện hữu ở đây và bây giờ giữa thực tại hiện
tiền.
Ảnh: Mai Lĩnh |
Trên
tinh thần giải thoát siêu việt đó, kỳ diệu thay, tiếng thơ đại hùng, đại lực, đại
từ bi của Thế Tôn đã mở ra những phương trời cao rộng mông mênh hoằng viễn. Kể
từ đó, nguôn thơ thiền bắt đầu phát sinh mãnh liệt dữ dội, trôi chảy tuôn trào
bất tuyệt, miên man quá cùng bát ngát giữa thiên thu vạn đại rạt rào. Vào đầu
thế kỷ thứ I, ở xứ sở u huyền Ấn Độ xuất hiện thiền sư Mã Minh với tập thơ Phật
Sở Hành Tán dài hơn 9000 câu thơ ngũ ngôn, tán thán ca ngợi cuộc đời và tư tưởng
Đức Phật. Bản trường ca kết thúc bằng mấy vần thơ trong sáng:
Tán
thán đức Thế Tôn
Suốt
cuộc đời hành đạo
Để
chuyển hóa chúng sinh
Được
an lành giải thoát.
Giải
thoát là hương vị tuyệt vời của nguồn thơ thiền, cứ mãi mãi quyện hòa trong
không khí, thoảng ngát chan chứa giữa lòng người khắp mọi miền chốn cõi nơi
nơi, qua các thiền viện am cốc, đô thành thị tứ, sơn dã làng quê. Hương vị giải
thoát ấy thấm sâu vào trái tim nhân loại, làm tan đi xiết bao phiền não khổ
đau, xiết bao những đục ngầu, u minh mịt mùng tăm tối.
Nối
tiếp mạch nguồn giải thoát đó, đến gần cuối thế kỷ thứ VI ở Trung Hoa, thiền sư
Huyền Giác ( 665 - 713 ) từ nơi thảo am hoang vắng tịch liêu, cạnh bên dòng
sông xanh quạnh quẽ cô tịch, bỗng cất lên tiếng hát động trời Chứng Đạo Ca hùng
tráng, vang ầm, rung chuyển, rền ngân trên cung bậc tối thượng thừa. Thi phẩm
Chứng Đạo Ca dài 266 câu thơ thất ngôn, tuy ra đời cách đây hơn 15 thế kỷ nhưng
thần lực của thơ vẫn còn tinh khôi mới mẻ, rực ngời ngọn lửa thiêng trong tim hồn
rưc rỡ, mở đầu bằng mấy câu thơ nhảy tung vào đốn ngộ bản thể tự thân:
Không
trừ vọng tưởng chẳng cầu chân ?
Tánh
thưc vô minh tức Phật tánh
Thân
không ảo hóa tức Pháp thân
Pháp
thân giác rồi không một vật
Vốn
nguồn tự tánh thiên chân Phật
Năm
ấm ảo hư mây lại qua
Ba
độc huyễn hoặc bọt còn mất. *
Tuyệt
đối chẳng còn chi phải học nữa, bậc liễu đạt là người hoàn toàn vô sự, nhàn
nhã, vượt qua thế giới nhị nguyên, hết còn phân biệt chân vọng, bởi thấu hiểu vọng
chân đều huyễn hóa. Chẳng nhọc lòng tiêu diệt vọng tưởng hay truy tìm chân lý,
chân tâm gì thêm. Tâm thể vốn hiện hữu sờ sờ, đang tỏa chiếu hào quang sáng rực
ngời ra đó từ muôn thuở, muôn nơi rồi. Mê thì không thấy, ngộ thì hoát nhiên thấy
ngay trước mắt rõ ràng. Ngộ rồi mới thông suốt lẽ “Tánh thật vô minh tức Phật
tánh. Thân không ảo hóa tức Pháp thân.” Thật ra cũng dễ hiểu, bởi vô minh chỉ
là một khái niệm không có tánh riêng biệt nào cả mà chỉ do mình bỏ quên, chẳng
biết có Phật tánh, nên tạm gọi là vô minh thế thôi.
Khi
tuệ giác quán chiếu bùng vỡ, lập tức tánh Phật hiển lộ huy hoàng thì vô minh
tan mất. Cũng vậy, thân huyễn hóa và Pháp thân chẳng đối lập gì nhau mà vốn là
bất nhị, Pháp thân ở ngay trong thân ảo hóa này, chứ tuyệt nhiên chẳng ở một
nơi chốn nào khác tận ngoài xa kia. Thiền sư liễu ngộ Pháp thân Phật tánh, nhìn
đâu cũng thấy không có một vật nào chướng ngại, nên thõng tay vào chợ, tùy
duyên hóa độ chúng sinh, chỉ rõ cho họ biết năm ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) ba độc (tham, sân, si) như ảo ảnh, huyễn mộng, như bọt nước mong manh chẳng
thật. Đừng lầm chấp thật mà sinh tâm dính mắc, ham muốn rồi tranh giành, chiếm
hữu, đưa đến căm thù, nhẫn tâm tàn sát lẫn nhau, gây bao đổ nát tang thương, sầu
hận chất chồng, tạo nghiệp mãi trong vòng sinh tử luân hồi.
Rỗng
rang buông xả, thư thả hòa chung nhịp bước, viên dung đôi bờ sống chết, có
không, mộng thực… giữa chốn miền thanh thản, tự do đó, có biết bao đạo sư, hiền
nhân, ẩn sĩ, đại trượng phu lẫm liệt đi về hòa tấu khúc Chứng Đạo Ca.
Làm
sao kể hết được những tâm hồn thượng đẳng, hoằng đại ấy, những con người siêu
việt đã khơi dậy sự sống nhiệm mầu, thưởng thức niềm hân hoan tối thượng của cuộc
sống toàn diện như đại sư kỳ vĩ Milarepa (1052 - 1135) ca hát vang lừng những
bài thơ phát khởi từ một trí tuệ nhìn thấu suốt ba nghìn thế giới. Tiếng hát, lời
ngâm trầm hùng như sư tử trên các triền núi cao nguyên bạt ngàn Tây Tạng, tiếp
giáp với mây trời vần vũ thiên thu. Những bài thơ xuất thần bay bổng, lồng lộng
tràn đầy ánh sáng quang minh rạng chiếu ngời ngời:
Từ
bỏ lòng yêu quê hương, xứ sở là vui
Thoát
khỏi luật lệ làng xóm là vui
Chẳng
làm kẻ cắp của cải tầm thường là vui
Không
có lý do để tham đắm là vui
Có
nhiều hiểu biết phong phú tinh thần là vui
Không
phải khốn khổ vì kiếm ăn là vui
Cứ
an nhiên tự tại, chẳng lo bị mất mát gì cả là vui
Chẳng
lo bị suy đồi, trụy lạc là vui
Có
tín tâm thâm hậu, sâu xa là vui
Vô
ngại đối với tư lợi của kẻ bố thí là vui
Giúp
đỡ nhiệt tình, không chán nản là vui
Không
sống lừa đảo, giả trá là vui
Thể
hiện tín tâm bằng mọi hành vi là vui
Thích
du hành chẳng mệt mỏi là vui
Không
sợ chết thình lình là vui
Chẳng
lo lắng bị cướp giật là vui
Thấy
tinh tấn trên đường đạo là vui
Tránh
hành động độc ác, xấu xa là vui
Cần
mẫn hiếu thảo, thuận hòa là vui
Vắng
lặng tánh tham lam, sân hận là vui
Chẳng
kiêu ngạo, ganh ghét, tỵ hiềm là vui
Thoát
khỏi hy vọng và sợ hãi là vui
Làm
chủ điều động tâm thức, ý thức là vui
Và
giải thoát sinh tử là vui, là cực lạc Niết bàn. **
Bản
hoan ca nhập cuộc siêu thoát, đại hòa điệu chơi với cõi ta bà, hòa âm thấm thía
nguồn vui lai láng, tràn ngập trong thi phẩm Gởi Lại Trần Gian của Milarepa vẫn
còn mãi đồng vọng giữa lòng nhân thế xưa nay.
Không
thể nghĩ bàn là tiếng thơ của một con người sống trên mặt đất. Giữa thiên thanh
vĩnh thúy, tiếng thơ ấy tự bao giờ đã bay lên đồng vọng mông mênh trên cung bậc
hùng tráng như tiếng hát đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, phát xuất từ một tuệ
giác siêu phàm nhập thánh khác, cũng của Phật giáo Mật tông Tây Tạng, đại sư
Langri Thangpa Dorje Senge qua Tám Đoạn Thi Kệ Chuyển Hóa Tâm Thức. Một bài thơ
linh diệu được truyền tụng khắp vùng lục địa Châu Á, được chính đức Đạt Lai Lạt
Ma và tất cả mọi thánh triết, hiền nhân trên thế giới đều học thuộc lòng và thường
xuyên miên mật áp dụng thực hiện. Nguyên tác tiếng Tây Tạng, nhan đề Blo-Sbyong
Tsig-Brgyad-Ma do Phạm Công Thiện dịch sang Việt ngữ:
Quyết
tâm thành tựu
Sự
hạnh phúc rộng lớn nhất cho tất cả sinh vật
Điều
này còn hơn cả viên ngọc như ý
Tôi
nguyện sẽ thường xuyên, liên tục thương yêu, quý mến hết thảy mọi chúng sinh.
II
Khi
chung đụng với người khác
Tôi
tự xem mình như là kẻ thấp hèn nhất trong mọi người
Và
trong tận đáy lòng sâu thẳm của tôi
Luôn
luôn trân trọng, kính quý những kẻ khác, coi họ như tối thượng.
III
Quán
chiếu, xem xét sự lưu chuyển liên tục của tâm thức tôi trong tất cả mọi cử chỉ,
hành động
Nếu
một lúc nào đó, có nỗi ưu sầu, đau đớn nào đột nhiên phát khởi dậy
Gây
tai hại cho chính tôi và cho những kẻ khác
Tỉnh
thức đối mặt, nhìn thẳng vào nỗi phiền não ấy, tôi liền chuyển hóa, làm tan biến
nó đi.
IV
Khi
chạm mặt với một người có tâm địa ác độc
Với
người ngu si bị sai khiến, điều động bởi những điều nham hiểm, gian trá và bởi
nhiều sự tàn bạo, điên rồ
Tôi
vẫn quý thương, ngưỡng mộ người ấy, người thực khó thấy
Giống
như mình bắt gặp một kho tàng trân châu vô cùng quý báu.
V
Khi
những kẻ khác vì ghen ghét, đố kỵ
Đối
đãi tôi tệ bạc, sỉ nhục, lăng mạ, chửi rủa tôi đủ điều tàn nhẫn
Tôi
cũng hoan hỷ chấp nhận những tiếng lời nặng nề, ghê gớm của họ
Và
nhường cho họ hoàn toàn sự đắc thắng.
VI
Khi
có một người mà tôi giúp đỡ tận tình
Tôi
đặt hết niềm hy vọng lớn lao vào người ấy
Nhưng
rồi, chính người ấy lại giáng xuống đầu tôi bao nhiêu tai họa khủng khiếp
Tôi
cũng xem người ấy như một người bạn tâm linh cao tột, như một bậc thầy, một thiện
tri thức đúng nghĩa
của tôi.
VII
Nói
gọn lại, tôi xin hiến dâng, trao tặng lợi ích tốt lành, hạnh phúc trọn vẹn cho
hết thảy những người mẹ, mọi mọi mẫu thân
Trong
cuộc đời này và trong cả sự luân lưu, tiếp diễn miên trường, vạn đại mai sau
Và
một cách kín đáo, tôi xin chịu nhận lãnh cho bản thân
Tất
cả những tai nạn, khốn khổ, lao đao của tất cả những người mẹ tôi.
VIII
Hơn
nữa, vì không nhiễm dính vào tám cơn gió loạn của thế gian như được và mất,
khen và chê, sướng và khổ, danh thơm và tiếng xấu
Bởi
nhìn thấy rõ ràng, tường tận tất cả những hiện tượng trong vũ trụ, nhân sinh đều
là huyễn hóa, huyễn hoặc
Tôi
liền thoát khỏi sự chấp trước, bám viu và được giải phóng, giải thoát khỏi mọi
sự nô lệ, buộc ràng của thế gian. ***
Ảnh: Mai Lĩnh |
Trăng
ngàn mây nước chảy tuôn nguồn mạch suối thiền qua nhiều sa mạc hoang vu, len lỏi
quanh co, gập ghềnh khúc khuỷu, chịu đựng tuyết băng thử thách, lách mình qua
nhiều trắc trở gai chông, dòng thiền vi diệu, trong trẻo thanh lương đã vượt
qua bao rừng núi mịt mù sương phủ, rồi đổ xuống vùng bờ biển xanh biếc Việt
Nam, tựu thành một nhánh Thiền Trúc Lâm Yên Tử từ cuối thế kỷ XII kéo dài mãi tận
đến bây giờ. Sơ Tổ Trúc Lâm Điều Ngự Giác Hoàng (1258 - 1308) trước kia là
vua Trần Nhân Tông, năm 40 tuổi (1298) nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông
và phát tâm đại nguyện xuất gia, quyết chí lên đỉnh núi rừng thiêng Yên Tử học
đạo với các bậc thầy thâm hậu. Tuyệt diệu làm sao! Đấng quân vương thượng đẳng,
lặng lẽ trút bỏ ngai vàng, điện ngọc lên đường, thực hiện một bước đi phi thường,
chọn am mây nhập thất, dụng công quyết liệt, hành trì miên mật và đã trở thành
một vị thiền sư uyên áo với khúc hát Cư Trần Lạc Đạo an nhiên:
Hễ
đói thì ăn mệt nghỉ liền
Kho
báu trong nhà thôi tìm kiếm
Đối
cảnh vô tâm chớ hỏi thiền.
Chỉ
cần 4 câu thơ thôi, đủ nêu bật yếu chỉ của Thiền tông. Sống giữa đời bằng thái
độ vô tư, vô chấp, cứ tùy hỷ, tùy duyên thì mọi việc đều rỗng rang trôi chảy. Tự
tri, tự biết trong tâm mình vốn sẵn đủ trí tuệ rồi, nên không còn chạy kiếm tìm
chi nữa. Bản tâm này là kho tàng châu báu vô lượng, dùng hoài chẳng bao giờ hết.
Vậy hãy quay về mở cửa lòng ra mà tha hồ sử dụng. Cứ ung dung với nụ cười tỉnh
thức, trong lòng không nhiễm vướng, trước muôn sự việc xảy ra thì cần chi phải
khổ nhọc hỏi thiền, vấn đạo làm gì thêm hao hơi tổn sức?
Phải
chăng, đó là cái thấy thấu thị của Sơ Tổ Trúc Lâm cũng như của Tuệ Trung Thượng
Sỹ? (1230 - 1291) Một bậc kỳ nhân dị thường làm dậy sóng nguồn thiền ầm vang
lên tận đỉnh ngàn cao xanh lồng lộng của tâm linh. Chính vua Trần Nhân Tông lúc
còn niên thiếu đã được Tuệ Trung Thượng Sỹ dạy dỗ, giáo dục. Hôm từ giã thầy trở
về hoàng cung, ngài hỏi: “Yếu chỉ Thiền tông là gì ?” Tuệ Trung Thượng Sỹ trả
lời: “Hãy nhìn trở lại nơi mình là phần sự gốc, chứ không phải từ bên ngoài mà
được”. Đúng vậy, đấy là tự tri tự giác, tự mình trực nhận, đốn ngộ, kiến tánh
ngay nơi đương xứ tức chân, chứ tuyệt nhiên không nên hướng ngoại tầm cầu ở đâu
đâu bên ngoài, tận chốn nào xa lơ xa lắc. “Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi”, đức
Phật đã nói như thế. Hãy hùng tâm tráng khí, tự tin, quyết chí thì mới có cơ
may nhận diện được cái mặt mũi xưa nay của chính mình, như thiền sư Quảng
Nghiêm (1122 - 1190) từng khích lệ: “Làm trai dốc chí xông trời thẳm. Chớ dẫm
Như Lai bước đã qua”.
Hòa
nhịp cung cầm như thế, Tuệ Trung Thượng Sỹ đi về thế giới ta bà, rong chơi nhàn
hạ vì đã khám phá ra kho tàng ngọc quý ở ngay trong lòng mình rồi. Cầm cây tuệ
kiếm Kim Cang ngoạn du thỏa thích, tung hoành ngang dọc khắp nơi, mọi chốn như
chỗ không người. Vung gươm tuệ chém đứt những sự phân biệt của đối đãi như có
không, sống chết, đến đi, giàu nghèo, được mất, hơn thua, đúng sai, phải trái,
chê khen, ghét thương, sướng khổ, thiện ác, trí ngu… đưa con người trở về với
cái đang là, đưa muôn vật trở về Như. Một khi đã mở được kho báu, đẩy cửa vào
thực tại hiện tiền, triệt ngộ tự tánh thanh tịnh vô vi, Tuệ Trung Thượng Sỹ
phiêu bồng, thõng tay vào chợ rong chơi, thể hiện cái thần khí đặc thù ấy là
bài thơ Phóng Cuồng Ca xuất thần bát ngát:
Chống
gậy chơi rong hề phương ngoài phương
Hoặc
cao cao hề mây đỉnh núi
Hoặc
sâu sâu hề nước trùng dương
Đói
thì ăn hề cơm mười phương góp
Mệt
thì ngủ hề nơi chẳng quê hương
Hứng
lên hề thổi sáo không lỗ
Lắng
xuống hề đốt giải thoát hương
Mỏi
nghỉ chút hề đất hoan hỷ
Khát
uống no hề tiêu dao thang
Quy
Sơn láng giềng hề chăn con trâu đất
Tạ
Tam chung thuyền hề trỗi khúc Thương lang
Thăm
Tào Khê hề ra mắt Lư Thị
Viếng
Thạch Đầu hề sánh vế lão Bàng
Vui
ta vui hề Bố Đại vui sướng
Điên
ta điên hề Phổ Hóa điên gàn
Chà
chà bóng ngày hề qua khe cửa
Ối
ối mây nổi hề mộng giàu sang
Chịu
sao hề thói đời ấm lạnh
Đi
chi hề gai góc đường quan
Sâu
thì nhón gót hề cạn thì dấn bước
Dùng
thì phô ra hề bỏ thì ẩn tàng
Buông
bốn đại hề đừng nắm bắt
Tỉnh
một đời hề thôi chạy quàng
Thỏa
nguyện ta hề rỗng rang tĩnh lặng
Sống
chết bức nhau hề ta vẫn như thường. ****
Phóng
Cuồng Ca đích thực là bản tiêu dao ca quá cùng thâm thúy. Tiếng hát ấy bay lên
từ trái tim rực ngời pháp khí, siêu quần bạt tụy, là điệu thở phiêu nhiên thoát
tục giữa bình sinh cuộc sống đời thường. Phóng Cuồng Ca là một thái độ tự khiêm
hạ mà cũng biểu lộ tính chất tự tại của một tâm hồn thượng đạt,
thấu triệt lẽ tử sinh, là khúc hát ngông nghênh xiêu quàng, nghêu ngao chuếnh
choáng, thoát khỏi mọi ràng buộc hạn hẹp nhỏ bé của thế gian, bằng điệu cười
hào sảng phóng khoáng, đại quang minh.
Ảnh: Mai Lĩnh |
Một
lữ khách
Tên
tôi là như thế
Giữa nhân gian này.
Trần
gian là quán trọ cho khách lữ ghé qua, là cõi tạm dừng chân cho thi sĩ nghỉ
ngơi, thưởng thức những vẻ đẹp phù du như kiệt tác Con Đường Sâu Thẳm của
Basho, hướng về uyên nguyên vĩnh cửu, phơi phới trời mây:
Trên
con đường này
Giữa
chiều thu nọ
Ai
về chẳng hay.
Phải
chăng, đó là trạng thái vô tâm trước những sự kiện hiển bày ? Có một lần vân du
qua rặng núi Phú Sĩ đầy tuyết trắng, Basho ghé trọ một lữ quán, bất ngờ gặp các
kỹ nữ đang ngủ say giấc nồng, thi nhân chạnh lòng cảm thương:
Quán
bên đường
Các
kỹ nữ nằm ngủ
Trăng
và đinh hương.
Ta
bà cảnh giới thành Tịnh độ là như thế, mắt biếc thiền sư nhìn thấy mà không nhiễm
dính chẳng mắc vướng, vẫn thong dong tự do tự tại. Cõi thơ Basho bàng bạc trăng
sương, ngạt ngào hoa cỏ, lãng đãng gió mây và chập chờn chim bướm lượn vờn
quanh gót du hành trên cuộc lữ thi ca:
Ôi
đóa nazuna
Chú
tâm nhìn thật kỹ
Bên
giậu rào trổ hoa
Mỏi
gót lang thang
Quán
trọ nào ghé lại
Gặp
hoa tử đằng
Giữa
cuộc đăng trình
Chỉ
còn mộng tôi phiêu phưỡng
Trên
cánh đồng hoang. *****
Nhẹ
nhàng giản dị, những bài thơ tuy ngắn gọn đơn sơ mà vô cùng chơn mỹ, đẹp như những
cụm mây trời trong nắng sớm tinh sương hay chiều thu mưa giữa biển đồi xanh lấp
loáng, phản ánh nếp sống thiền Nhật Bản. Đối với họ, cuộc sống thường nhật là đạo,
bất cứ phương diện nào của cuộc sống như uống trà, cắm hoa, võ thuật, viết chữ,
ngao du… đều là đạo là thiền, là thơ là nhạc hết thảy.
Khởi
mạch nguồn thơ thiền bắt đầu từ thời đức Thế Tôn khơi mở trên tuyệt đỉnh Linh
Sơn chập chờn phù vân Ấn Độ. Trào tuôn ngút ngàn qua mấy dải sa mac mênh mông
vào lục địa Trung Hoa chập chùng sông núi. Trùng trùng điệp điệp chất ngất chợt
bừng sáng, dâng lên bềnh bồng sương khói trời mây Tây Tạng xa vời, rồi mênh
mang tràn xuống muôn trùng rừng biển Việt Nam đến tuyệt cùng bao la xanh ngần
Nhật Bản…Bát ngát mở ra không bờ bến, trên cuộc về vô tận, vô sở trú của các
thiền sư thi sĩ dị thường.
Tâm
Nhiên
________________________________________________________________
*
Huyền Giác. Chứng Đạo Ca. Trúc Thiên dịch. Lá Bối xuất bản, Sài Gòn 1970
**
Milarepa. Gởi Lại Trần Gian. Đỗ Đình Đồng dịch. Hiện Đại xuất bản, Sài Gòn 1970
***
Phạm Công Thiện. Nét Đẹp Tinh Túy Trong Sáng Của Đạo Lý Phật Giáo. Nhà xuất bản
TP.HCM 2002.
****
Tuệ Trung Thượng Sỹ. Ngữ Lục. Lý Việt Dũng dịch giải. Mũi Cà Mau xuất bản 2003
*****
Nhật Chiêu. Basho Và Thơ Haiku. Văn Học xuất bản 1994