- Mai Lĩnh
Đây
là bộ từ điển địa phương đầu tiên về thành phố có quá hình hình thành và phát
triển hơn 300 năm; thành phố có số cư dân đông nhất nước và là một trung tâm
chính trị, văn hóa, kinh tế... quan trọng của cả nước, đứng thứ hai sau thủ đô
Hà Nội. Công trình được hoàn thành sau gần 5 năm biên soạn và chỉnh lý của nhóm
tác giả gồm 2 vị chủ biên (Thạch Phương - Lê Trung Hoa), 18 cộng tác viên và
được khảo duyệt, tiếp sức bởi một hội đồng gồm các học giả, nhà nghiên cứu có
uy tín. Nhà xuất bản Trẻ, thành phố HCM phát hành lần đầu vào tháng 3/2001.
Chúng
tôi xin bày tỏ sự ngưỡng mộ, khâm phục đối với công trình sưu tầm, biên soạn
rất có giá trị này. Cũng với tình cảm đó, chúng tôi xin mạo muội nêu ra vài
điểm, đề nghị các nhà biên soạn Từ điển
thành phố Sài Gòn - Hồ Chí Minh (dưới đây sẽ gọi tắt là Từ Điển) xem xét,
hiệu chỉnh, bổ sung cho lần xuất bản sau.
- Phần BÁO CHÍ - XUẤT BẢN:
1. Trang 850 có
chép rằng Phan Yên báo là nguyệt san ra đời tháng 12-1868 và là tờ
báo thứ hai viết bằng chữ quốc ngữ ở Gia Định. Nhưng tại trang 1028, mục
“Tờ báo đầu tiên bị cấm ở Saigon” lại cho là báo này ra số đầu tiên vào tháng
12-1898, sau tờ Thông Loại Khóa Trình
của Trương Vĩnh Ký (ra số đầu tháng 5-1888). Tuy nhiên, ở mục này cũng cho rằng
Phan Yên báo là tờ báo quốc ngữ thứ hai.
Sự
sai biệt con số năm xuất bản tờ Phan Yên
báo (1868 và 1898) nêu trên chắc chắn không phải là một lỗi do sắp chữ vì
theo đó còn một số chi tiết mâu thuẫn cần chú ý sau:
*
Nếu
Phan Yên báo là tờ báo quốc ngữ thứ hai ở Gia Định (cũng là của nước ta) thì nó
phải ra đời năm 1868, chỉ sau tờ Gia Định
báo (1865). Và như vậy đó chính là tờ báo tư nhân đầu tiên ở Việt Nam (do
Diệp Văn Cương chủ trương) xuất bản trước tờ Thông Loại Khóa Trình 20 năm.
*
Trái
lại, nếu Phan Yên báo ra đời năm 1898
- sau tờ Thông Loại Khóa Trình 10 năm
- thì nó không thể là tờ báo quốc ngữ thứ
hai xuất bản tại Gia Định được. Đơn giản là vì Thông Loại Khóa Trình cũng là báo dùng quốc ngữ, được in và phát
hành tại Gia Định.
Được biết, hiện
trong nước không còn bản lưu nào của tờ Phan
Yên báo, nhưng các công trình nghiên cứu [1] về
lịch sử báo chí nước ta trước đây đều ghi nhận báo này ra số đầu tiên vào tháng
12-1868 - là tờ báo quốc ngữ thứ hai của Việt Nam.
2. Mục từ: Lành Mạnh (trang 843) - Tập san Lành Mạnh (xuất bản vào ngày
mồng Một mỗi tháng) ra mắt số đầu tiên ngày 01-10-1956, không phải vào năm 1958
như Từ điển viết. Đến ngày 01-8-1963 ra số 83. Trong suốt thời gian ấy (83
tháng), tòa soạn và trị sự đặt tại : 32 đường Lê Lợi, Huế và báo in tại nhà in
Sao Mai - 76 đường Nguyễn Huệ, Huế. Chủ nhiệm tập san này là Bác sĩ Lê Khắc
Quyến, bấy giờ là Giám đốc Bệnh viện Huế. Vì vậy Lành Mạnh là tờ báo được xuất bản tại Huế chứ không phải tại
Saigon; thiết nghĩ không nên đưa vào Từ điển này.
3. Mục từ: Chính Luận (trang 827) - Từ điển chép
ngày đình bản báo này là 30-3-1974. Chúng
tôi không rõ báo Chính Luận ra số
cuối cùng vào ngày nào, là số mấy; nhưng chắc chắn chi tiết nói trên không
chính xác. Hiện nay chúng tôi còn giữ một bản số báo Chính Luận ra ngày thứ Sáu, 09-8-1974.
-
Phần NHỮNG ĐIỂM ĐÁNG NHỚ, mục Bức ảnh
được trao giải quốc tế Pulitzer (trang 1029) nói về bức ảnh được trao giải
ảnh báo chí Pulitzer năm 1969, được chụp trên đường phố Saigon trong bối cảnh
cuộc Tổng công kích và nổi dậy xuân Mậu Thân (1968); trong ảnh là Tổng giám đốc
Cảnh sát Saigon - Nguyễn Ngọc Loan - đang chỉa súng ngắn bắn vào đầu một người
bị trói chặt hai tay ra sau. Từ điển nói rằng tác giả bức ảnh đó là một phóng
viên của báo Sunday Times.
Xin đính chính như sau: Tác giả
bức ảnh đó là EDDIE ADAMS. Lúc chụp bức ảnh nói trên, anh ta đang làm phóng
viên ảnh chính thức cho hãng Associated
Press (AP) theo một hợp đồng từ 1962 đến 1972. Sau đó Adams trở thành một
phóng viên tự do (freelance) với một hợp đồng cung cấp ảnh cho tạp chí Time.
- Phần NHÂN VẬT: Có nhiều điểm cần sửa lại
(không kể lỗi mo-rát) hoặc viết lại cho rõ ràng, chính xác. Ở đây chỉ nêu vài
trường hợp:
1/
Mục từ: Lê Liễu Huê (trang 168). Từ
trước đến nay, tỉnh Quảng Trị không hề có huyện
Thạch Hãn. Chỉ có làng Thạch Hãn
(thuộc thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị) và dòng
sông Thạch Hãn.
2/
Mục từ: Lê Ngọc Trụ (trang 169). Cây Gõ là tên gọi một vùng thuộc quận 6
(phường 6 và 9), khu vực giáp quận 11; không liên quan đến quận 5 như trong Từ
điển ghi.
3/
Mục từ: Mai Văn Bộ (trang 180). Huyện
Thốt Nốt hiện nay thuộc tỉnh Cần Thơ, không thuộc tỉnh An Giang như trong Từ
điển viết.
4/
Mục từ: Nguyễn Tường Tam (trang 213).
Từ điển viết: “...làm Trưởng đoàn đàm
phán với Pháp tại Hội nghị Đà Lạt và Fontainbleau. Sau đó, bỏ công tác chạy
sang Trung Quốc”.
Xin
nói rõ như sau: Tại Hội nghị trù bị Việt Pháp tại Dalat ngày 19/4/1946, phái
đoàn Việt Nam do Nguyễn Tường Tam làm Trưởng đoàn, Võ Nguyên Giáp làm Phó đoàn.
Về Hội nghị Fontainbleau : theo danh sách ngày 28-5-1946, Nguyễn Tường Tam được
cử làm Trưởng đoàn, nhưng ngày 30-5-1946, có quyết định thay đổi và Phạm Văn
Đồng đã thực hiện nhiệm vụ Trưởng phái đoàn Việt Nam tại hội nghị nói trên.
Vậy
không thể viết như đoạn trích dẫn nêu trên; tuy ngắn, gọn, nhưng làm người đọc
hiểu sai sự thật lịch sử.
5/
Hai mục từ: Ngô Tùng Châu (trang 183)
và Võ Tánh (trang 267).
Năm
Kỷ Mùi (1799), Nguyễn Ánh chiếm thành Quy Nhơn, đổi thành trấn Bình Định. Đến
năm Tân Dậu (1801), bị quân Tây Sơn vây ngặt lâu ngày, quân lương đã cạn kiệt,
không đủ sức chống giữ, quan Trấn thủ Võ Tánh và Hiệp trấn Ngô Tùng Châu cùng
tuẫn tiết.
Về
Ngô Tùng Châu, Từ điển ghi: “Năm 1799,
làm Hiệp trấn Bình Thạnh cùng với trấn thủ Võ Tánh giữ thành”. Cần sửa lại
là ...Hiệp trấn Bình Định. Có ý kiến
cho rằng sách viết là Bình Thành,
nhưng in sai. Dù viết như vậy cũng không chuẩn, vì hai ông Võ Tánh và Ngô Tùng
Châu đóng binh trong thành Bình Định nhưng trấn thủ lãnh thổ Trấn Bình Định chứ không chỉ riêng khu
vực thành Bình Định.
Về
Võ Tánh, Từ điển lại viết: “...trấn thủ
thành Qui Nhơn...”, cần sửa lại là thành
Bình Định.
6/
Mục từ: Võ Trường Toản (trang 269).
Từ điển viết “Khi Pháp chiếm ba tỉnh miền
Đông Nam Kỳ, Phan Thanh Giản cùng Nguyễn Thông và nhiều môn sinh yêu nước đứng
ra lo việc cải táng mộ người thầy học đáng kính về làng Bảo Thạnh, huyện Ba
Tri, tỉnh Bến Tre với ý tưởng không để mộ thầy nằm trong vùng giặc chiếm lúc
bấy giờ”.
Đọc đoạn văn liền một câu như
trên, nhiều người sẽ lầm tưởng Phan Thanh Giản (1796-1867) và Nguyễn Thông
(1827-1884) cũng là học trò của Võ Trường Toản (mất năm 1792). Viết ngắn gọn
kiểu này quả là rất nguy hiểm.
Theo
Lời Giới Thiệu thì Từ điển thành phố Sài Gòn - Hồ Chí Minh
là loại từ điển phổ thông, lấy đối tượng phổ biến là lớp trẻ, học sinh sinh
viên. Chính vì vậy, thiết nghĩ cần có cách viết - dù ngắn gọn - nhưng phải khúc
chiết, đủ nghĩa, tránh sự hiểu nhầm cho người tra cứu thuộc tầng lớp phổ thông …
[1] Huỳnh văn Tòng (Lịch sử Báo chí
Việt Nam), Nguyễn Ngu Í (Bách Khoa), Nguyễn Ang Ca (Phổ Thông bán nguyệt
san).....