- Tâm Nhiên
Thi sĩ Phạm Thiên Thư |
Thi
sĩ Phạm Thiên Thư quê Thái Bình, sinh năm 1940. Thuở nhỏ, đó đây rong rêu lêu lổng,
chạy đùa chơi quanh trang trại Đá Trắng ở Hải Dương, thường tắm sông lội suối,
đuổi bắt chuồn chuồn, châu chấu, thả hồn chao nghiêng cùng tiếng sáo diều vi
vút chơi vơi… Rồi đến năm 1954, bỏ xứ lên đường di cư vào Nam, lưu trú tại Sài
Gòn từ đó cho đến nay.
Thấy
cảnh đời loạn lạc, tang thương, chiến tranh chết chóc đang diễn bay ra hàng
ngày trên khắp mọi miền đất nước đầy thống khổ đoạn trường, nên đến năm 1964
thi sĩ đi xuất gia, nghiên cứu tư tưởng Phật giáo, tốt nghiệp Phật khoa Đại học
Vạn Hạnh năm 1968.
Rồi ra đời, rời chùa năm 1973 hòa cùng cát bụi, ruổi rong
theo dòng đời cuồng lưu trôi chảy. Chảy trôi xanh biếc huyền mộng là cõi thơ dạt
dào bao tình cảm thiết tha và kết tinh minh triết, tựu thành những thi phẩm: Động
hoa vàng, Đoạn trường vô thanh, Quyên từ độ bỏ thôn Đoài, Trại hoa đỉnh đồi,
Nhân gian, Ngày xưa người tình, Đôi lời thược dược, Huyền ngôn xanh, Hát ru Việt
sử thi, tập nhạc Đạo ca, đặc biệt là những cuốn sách biên khảo viết rất công
phu như Từ điển Cười, Từ điển Đời và những tác phẩm thi hóa kinh Phật như Kinh
ngọc, Kinh hiền, Kinh hiếu, Kinh thơ… Thơ và nhạc hòa âm cùng một suối nguồn
lung linh diệu ảo, vô cùng diễm tuyệt ngân nga:
Mười
con nhạn trắng về tha
Như
Lai thường trụ trên tà áo xuân
Vai
nghiêng nghiêng suối tơ huyền
Đôi
gò đào nở trên miền tuyết thơm.
Đó
là 4 câu thơ mở đầu dẫn vào Động hoa vàng của Phạm Thiên Thư, một thi phẩm thâm
thúy, trữ tình chứa chan đầy chất thi ca âm nhạc, là bản trường ca dài 400 câu
lục bát, lãng đãng nàng thơ diễm tuyệt, bước về trang nghiêm cho cuộc đời và cỏ
hoa sông núi, rừng biển thiên nhiên như thi sĩ nhẹ bày tỏ hân hoan:
Động
hoa vàng
Hay
cõi giới tâm thức nguyên sơ
Là
khu rừng mầu nhiệm
Nơi
trú ngụ của mọi cỏ hoa
Là
chân trời bát ngát
Chốn
reo ca của những cánh chim trở về
Là
trang trại màu lam bên kia dòng dịch hóa
Là
vàng ngọc không phai mờ dưới đáy sông Thương
Xin
phá tung cánh cổng nhị tướng
Bước
vào.
Bước
vào cõi thơ Phạm Thiên Thư là phiêu du lồng lộng những phương trời bồng bềnh
chuếnh choáng, tràn đầy cỏ hoa, chim bướm, sắc nước hương trời với nhiều quyến
rũ thanh kỳ tú lệ. Đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác với biết bao thú vị
như lạc vào chốn nào thấp thoáng sương mù, bàng bạc ẩn hiện ánh trăng huyền ảo,
rạo rực phơi bày lung linh những sắc màu kỳ hoa dị thảo, lấp lánh long lanh giữa
trời thơ đất mộng. Từ nơi vườn lòng thong thả, nhà thơ ngồi lắng nghe văng vẳng
tiếng dế kêu rì rào quạnh vắng vườn khuya, thưởng thức giọng chim vành khuyên
ca hót líu lo trong buổi bình minh nắng sớm hay chập chờn theo cánh bướm vàng
bay lượn cuối nẻo hoàng hôn ùn mây khói nhạt nhòa:
Dế
buồn dỗ giấc mù sa
Âm
nao lãng đãng tơ ngà sương bay
Người
về sao nở trên tay
Với
hài đẫm nguyệt thêm dài gót mơ
Con
khuyên nó hót trên bờ
Em
thay áo tím thờ ơ giang đầu
Tưởng
xưa có kẻ trên lầu
Ngày
xuân gieo nhẹ trái cầu gấm hoa
Tóc
dài cuối nội mây xa
Vàng
con bướm nhụy lẫn tà huy bay
Dùng
dằng tay lại cầm tay
Trao
nhau khăn lụa nhớ ngày sầu đưa.
Sầu
đưa chi mà da diết lâm ly, ngan ngát hương vị tình yêu siêu nhiên nguyên thủy.
Một hương vị tình yêu diệu kỳ chỉ có thể thưởng thức được từ giữa tâm hồn lai
láng bồi hồi của chúng ta mà thôi. Ơi chao! Từ đâu em đến hay từ vô lượng kiếp
em về khơi mở lung linh chuyện tình sử ngọn ngành:
Từ
em khép nép hài xanh
Về
qua dục nở hồn anh đóa sầu
Ừ
thì mình ngại mưa mau
Cũng
đưa anh đến bên cầu nước xuôi
Sông
này chảy một dòng thôi
Mây
đầu sông thẫm tóc người cuối sông.
Sông
nước thì muôn đời cứ mãi hoài trôi chảy miên man, nên hoàn toàn mới mẻ mới lạ,
như Heraclite triết gia Hy Lạp nói: “Không ai có thể hai lần tắm trong cùng một
dòng sông” và Khổng Tử cũng phát biểu tương tự: “Chảy đi chảy hoài như thế kia
ư, suốt ngày đêm không ngừng nghỉ.” Còn dòng sông cuộc đời, cũng từ muôn thuở vẫn
khơi vơi trôi chảy giữa ngày tháng năm ròng rã, nhưng không chảy trôi hết được
những tương tư sầu mộng trong thầm kín nghìn thiết tha kỳ lạ:
Đường
về hái nụ mù sa
Đưa
theo dài một nương cà tím thôi
Thôi
thì em chẳng yêu tôi
Leo
lên cành bưởi nhớ người rưng rưng
Sao
em bước nhỏ ngập ngừng
Bên
cầu sương rụng mấy từng mai mơ
Đêm
về thắp nến làm thơ
Tiếng
chân còn vọng nửa tờ thư tôi.
Thi
sĩ thì chỉ biết làm thơ thôi chứ còn biết làm chi hơn nữa, phải không hỡi người
em diễm kiều yêu dấu? Vĩnh viễn thiên thâu, từ đây cho đến ngàn đời tái sinh,
chết đi sống lại trong vòng luân hồi bất tận thì thi nhân cũng còn mãi tiếp tục
làm thơ, trút hết tinh hoa hòa điệu cùng nhịp thở với tâm tình tha thiết kính tặng,
dâng hiến riêng cho em mà thôi:
Đôi
uyên ương trắng bay rồi
Tiếng
nghe tha thiết bên trời chớm đông
Nửa
đêm đắp mảnh chăn hồng
Lại
nghe hoa lạnh ngoài đồng thiết tha
Con
chim chết dưới cội hoa
Tiếng
kêu rụng giữa giang hà xanh xao
Mai
anh chết dưới cội đào
Khóc
anh xin nhỏ lệ vào thiên thu.
Giọt
lệ nhỏ xuống cho tình yêu là giọt lệ thiêng liêng nhất, chính những giọt lệ đó
đã kết tinh thành suối nhạc nguồn thơ của nhân loại từ thuở hồng hoang cho đến
thời hiện đại hôm nay. Thấy rõ sâu sắc một cách tinh tế điều đó, nhà thơ càng
thêm dồi dào bao cảm xúc, rung động trước vẻ đẹp thuần túy bình dị của nàng
thơ, thục nữ nhu mì mềm mại, dịu dàng duyên dáng, yểu điệu đi về trên gót mộng
thanh tân:
Em
về hong tóc mùa xuân
Trăng
trầm hương tỏa dưới chân một vành
Em
nằm ngó cội thu xanh
Môi
ươm đào lý một nhành đôi mươi
Về
em vàng phố mây trời
Tay
đơm nụ hạ hoa dời gót xuân.
Gót
mộng thanh xuân rực ngời mới lạ trên hội ngộ tao phùng, tung tăng nhảy múa hát
ca, huy hoàng rạng rỡ một thời xanh hoa mộng, rồi phôi pha tạ từ trong mong nhớ
chờ đợi, trong buồn thấm ngậm ngùi, phơ phất từng cơn gió thu về lành lạnh heo
may:
Đợi
nhau tàn cuộc hoa này
Đành
như cánh bướm đồi tây hững hờ
Tìm
trang lệ ố hàng thơ
Chữ
xưa quyên dục bây giờ chim di
Mây
xưa cũng bỏ non về
Em
xưa cũng giã câu thề đó đây
Nhớ
đành biết mấy tầm tay
Lông
chim biển bắc hoa gầy bãi đông
Đợi
ai trăng dõi hoa buồn
Vắng
em từ thuở theo buồm gió xuôi
Chiều
chiều mở cổng mây trôi
Chênh
vênh núi biếc mắt ngời sao hôm.
Đôi
mắt thi nhân đăm chiêu ngắm nhìn sâu vào lòng đời nhân thế, để thấy rõ tận tường,
hiểu biết thâm sâu hai mặt của thực tế, trùng phùng rồi chia tay, gặp gỡ rồi ly
biệt, theo lẽ đương nhiên như thế, thì nhà thơ cũng tùy duyên, uyển chuyển theo
công cuộc sáng tạo giao thoa cùng mưa nắng bốn mùa:
Chim
từ bỏ động hoa thưa
Người
từ tóc biếc đôi bờ hạ đông
Lên
non kiếm hạt tơ hồng
Đập
ra chợt thấy đôi dòng hạc bay
Người
về đỉnh núi sương tây
Ta
riêng nằm lại đợi ngày mướp hoa
Bến
nam có phố giang hà
Nghiêng
nghiêng nậm ngọc dốc tà huy say
Tình
cờ anh gặp nàng đây
Chênh
vênh gót nguyệt vóc gầy liễu dương
Qua
sông có kẻ chợt buồn
Ngó
hoa vàng rụng bên đường chớm thu.
Hình
ảnh thi nhân “dốc tà huy say” thật ấn tượng làm sao ! Say tình say mộng, say nhạc
say thơ, say và say chuếnh choáng càn khôn, khiêu vũ cùng vũ trụ đất trời, bởi
vì em là chất rượu quý ngàn năm ấp ủ men nồng, ơi rượu hồng nhan cạn hết một
ly, hai cốc, ba chén, bốn xị là đã thấu thị cuộc tình vạn đại lưu linh, vô lượng
thương yêu diệu ảo giao hòa:
Hoa
đào tưởng bóng đào xưa
Thuyền
sang bến nọ dòng mờ khói vơi
Hoa
dương vàng nhạt sầu người
Ta
về uống nước sông khuây khỏa lòng
Đưa
nhau đổ chén rượu hồng
Mai
sau em có theo chồng đất xa
Qua
đò gõ nhịp chèo ca
Nước
xuôi làm rượu quan hà chuốc say.
Lấy
nước sông xanh làm rượu uống chơi cũng là một cách điệu tiêu dao tao nhã. Với
nhà thơ nhạy cảm, chỉ cần một giọt sương, một suối tóc là cũng đủ say túy lúy rồi,
huống chi là rượu quan hà dưới dòng trong trẻo nước trôi qua. Lý Bạch ngày xưa
chắc cũng thống khoái cuồng ngâm với rượu trăng đầm đìa trên sông Dương Tử hay
như Phạm Công Thiện từ thuở còn thơ dại đã lấy sông Cửu Long làm rượu hồng đào,
nên mãi xuất thần say đắm, say sưa suốt bình sinh cuộc sống, Trịnh Công Sơn
cũng lấy sông Hương chế biến thành rượu hồng nhan làm nguồn cảm hứng sáng tạo,
hoặc như Tản Đà say rượu hoàng hoa bên bến sông Hồng phiêu hốt cuồng ca, còn Phạm
Thiên Thư thì lấy rượu tình thơ làm chất xúc tác cho thêm thi vị đậm đà:
Đất
nam có lão trồng hoa
Mùa
hoàng cúc nở ướp trà uống đông
Lại
đem bầu ngọc ra trồng
Bầu
khô cất nậm rượu hồng uống xuân
Người
vui ngựa chợ xe thành
Ta
leo cầu trúc bên ghềnh thác rơi
Theo
chân chim gặp mây trời
Lại
qua khói động hỏi người tu non.
Còn
gì thích thú hơn là một ngày nhàn nhã, thảnh thơi rời bỏ phố thị ồn ào, náo nhiệt,
làm một cuộc ngao du thanh thản lên rừng núi thiên nhiên, viếng thăm những bậc
thiền sư, ẩn sĩ, ni cô hào hùng cùng tuế nguyệt thi gan:
Mùa
xuân mặc lá trên ngàn
Mùa
thu mặc chú bướm vàng tương tư
Động
nam hoa có thiền sư
Đổi
kinh lấy rượu tâm hư uống tràn
Nên
khuya lửa hắt hiu vàng
Trang
kinh lác đác đôi hàng nhạn sa
Ý
nào hóa hiện ngàn hoa
Chữ
nào cẩn nguyệt trên tà áo ni
Dỗ
non suối giọng thầm thì
Độ
tam thế mộng sá gì vóc hoa
Ni
cô hiện giữa ta bà
Búp
tay hồng ngọc nâng tà áo trăng.
Giai
thoại thiền kể rằng, có một thiền sinh đốn ngộ bất ngờ khi khám phá ra “ni cô vốn
là con gái.” Có chi đâu giữa bờ mê bến ngộ chỉ cách nhau một kẻ tóc đường tơ.
Nàng con gái không ưa thích chuyện lấy chồng, sinh con đẻ cái nheo nhóc, đeo
mang nặng nhọc trong cuộc sinh tồn nhiều bức bách nhiêu khê. Vì thế, nhẹ nhàng
cất bước thong dong lên đường như cánh nhạn vút bay lên bầu trời tâm nội thanh
thoát vân du:
Ni
về khép cửa chùa tu
Sớm
mai mở cổng quét thu vườn hồng
Thu
vươn ngọn chổi đôi bông
Thoảng
dâng hương lạ bướm vòng cánh duyên
Sư
lên chót đỉnh rừng thiền
Trong
tim chợt thắp một viền tà dương
Ngón
tay nở nụ đào hương
Cầm
nghiêng Tịnh độ một phương diệu vời
Một
dòng hoa nổi trên trời
Một
dòng hoa nở trong người trầm tư
Cánh
nào mở cõi không hư
Phiến
băng tuyết khảm một tờ Kim Cang.
Hồn
thơ Phạm Thiên Thư được hàm dưỡng từ tinh thần vô sở trụ của Thiền tông nên
luôn luôn linh động, sáng tạo hài hòa giữa đời với đạo một cách tự nhiên, như
thi sĩ Bùi Giáng đã có lần tán thán: “Nguồn thơ Phạm Thiên Thư chảy từ cõi uyên
nguyên Phật giáo, tràn ngập vào lục bát Việt Nam, trở thành một dòng riêng biệt
bát ngát”. (*) Phật giáo uyên nguyên cho biết rằng, từ đời thuở nào, con người
chúng ta vốn sẵn có tự tánh thanh tịnh rồi, nên mình khỏi phải làm gì thêm nữa
mà chỉ cần thấy tánh là trở về nhập cuộc. Nhập vào nguồn sống vi diệu ngay bây
giờ và ở đây, như có lần Phạm Thiên Thư tâm sự: “Gạn sạch ý niệm để tịch mặc
trước cỏ hoa, chiêm ngưỡng thiên thu trong ánh chớp, lắng nghe tiếng rơi của hạt
mưa, thể chứng đại nguyện của vách đá, trầm lặng tàn khốc như biển xanh. Vắng vẻ
mọi so đo chân giả, xa lìa mọi giả danh, tham chấp, đạp lên biến hoại để trùng
sinh. Hãy tái tạo từng hơi thở, từng tế bào, từng sợi tóc. Sống mãnh liệt, vượt
thoát cõi giới ý niệm vàng võ, nổ tung mọi con đường ảo tưởng, mọi tiến bộ trá
ngụy, mọi cố hương ru ngủ, mọi chia phân giới hạn để thể nhập kiến không. Đẩy cửa
vào Tâm giới, nơi đáy cùng của vạn vật Nhất như, thức ngủ với trăng sao, im lặng
sấm sét như núi lớn, đồng nhất nơi Tự tánh bình đẳng”. (**)
Đúng vậy! Hãy nhập cuộc
vào cái trật tự tự nhiên cùng nhật nguyệt thiên địa, càn khôn vũ trụ bao la.
Trong trật tự ấy, chúng ta là một pháp vô tâm nên vô sự như trời xanh mây trắng,
nắng vàng cơn mưa, núi đồi biển cả, khói sương làn gió, cỏ cây chim hót, cánh
bướm đóa hoa... là những pháp vô sự nên vô vi. Muôn loài vạn vật đều vô vi mà
bình đẳng nhau trong pháp giới vô ngại rỗng rang.
Từ
cõi miền uyên nguyên đó, Phạm Thiên Thư thênh thang, nhẹ nhàng từng bước chân
thi sĩ đi về thể hiện ngoạn mục giữa cõi tồn lưu sinh động hàm dung, cũng sầu
vui chia sẻ cùng nhịp đập trái tim cuộc đời với người em thuần hậu chơn mỹ thi
ca, cũng đầy nhiệt tình mà vẫn giữ niềm xa cách, như có vẻ nguội lạnh mà vẫn
chan chứa yêu thương, vừa say đắm mặn nồng vừa lững lờ hờ hững như không:
Thế
thôi phố bụi xe hồng
Hồ
ngăn ngắt dục đôi dòng nhạn bay
Đưa
nhau đấu rượu hoa này
Mai
đi dã hạc thành ngoài cuồng ngâm
Xuống
non nhớ suối hoa rừng
Vào
non nhớ kẻ lưng chừng phố mây
Về
thành nhớ cánh chim bay
Xa
thành thương vóc em gầy rạc hoa.
Đó
là tâm trạng của nhà thơ cũng là tâm trạng chung của chúng ta. Thôi thì cứ để
mặc nhiên, như nhiên cho dòng thơ trôi chảy. Thơ là hơi thở, làm thơ là chuyển
động không khí chung quanh, hấp thụ dưỡng chất mặt đất và chuyển hóa tinh thần
hướng về cái đẹp chân thiện mỹ. Đi đứng nằm ngồi, tư duy suy tưởng, nói năng im
lặng đều cùng một năng lượng từ cỗi nguồn tâm tánh nhiệm mầu. Sâu thẳm trong đó
là cả một kho tàng phong phú, chỉ cần tương ứng là diệu dụng ngay lập tức, hiện
liền ra trước mắt đây thôi. Lặng yên thi sĩ chiêm ngưỡng hương sắc mong manh để
cảm nhận vẻ đẹp phù du của mộng đời hư huyễn phù trần:
Thì
thôi tóc ấy phù vân
Thì
thôi lệ ấy còn ngần dáng sương
Thì
thôi mù phố xe đường
Thôi
thì thôi nhé đoạn trường thế thôi.
Đoạn
trường dâu bể ừ thì dâu bể đoạn trường, thi nhân vẫn dấn bước đăng trình trên
phong thái phiêu linh, vẫn luôn luôn tùy hỷ, tùy thuận chúng sinh. Chấp nhận hết
thảy mọi buồn vui sướng khổ, mọi đắng cay mặn chát mà thực ra không chát mặn, đắng
cay gì hết trọi. Cái trạng thái vô vi ấy, thể hiện qua những vần thơ bảng lảng
thiên thanh vĩnh thúy, nghi ngút tận cuối bãi đầu ghềnh, lênh láng ngàn mây trắng
giăng phủ đồi hoang dại mờ khuất dặm mù xa:
Phạm Duy và Phạm Thiên Thư |
Ta
về rũ áo mây trôi
Gối
trăng đánh giấc bên đồi dạ lan
Rằng
xưa có gã từ quan
Lên
non tìm động hoa vàng ngủ say
Ngựa
xưa qua ải sương này
Còn
nghe nhạn lạc kêu hoài bãi sông
Nước
xuôi gờn gôn mây hồng
Tiếng
ca lạnh thấu hoàng hôn giục đò.
Bềnh
bồng sông nước thường trôi về trong dòng thơ Phạm Thiên Thư cũng như nàng thơ gầy
cũng thường xuyên hiện hữu. Hình bóng yểu điệu thục nữ ấy là tinh anh kết tụ từ
muôn sắc ngàn hoa, từ hồn thiêng sông núi tạo thành, khiến chàng thi sĩ đa tình
lãng mạn bỗng hóa thân thành cánh bướm Trang Tử bay lượn về chấp chới vờn quanh
vườn hoa cỏ bên thềm:
Mắt
nàng ru chiếc nôi êm
Ru
hồn tôi ngủ ngàn đêm tuyệt vời
Em
là hoa hiện dáng người
Tôi
là cánh bướm cung trời về say.
Say
thơ say nhạc, say em mềm mại suối tóc mây hồng, suốt ngày đêm say mê đắm mộng,
nồng nàn điệu thở chờ nhau. Yêu dấu hỡi! Xiết bao nao nức, rộn rã dạt dào rồi
bàng hoàng sững sốt mới hay chỉ là huyễn mộng chiêm bao:
Áo
em vạt tím ngàn sim
Nửa
nao nức gọi nửa im lặng chờ
Yêu
nhau từ thuở bao giờ
Gặp
đây giả bộ hững hờ khói bay
Tình
cờ như núi gặp mây
Như
sương đậu cánh hoa gầy tiêu dao
Tỉnh
ra thì giấc chiêm bao
Chuyện
mười năm cũ lại nao nao lòng.
Yêu
nhau từ vô lượng kiếp rồi em ạ em ơi ! Lời thơ thổn thức, rưng rưng ngấn lệ phập
phồng. Mộng và thực xóa nhòa không còn biên giới phân hai nữa mà nhập vào bồ đề
thể tánh toàn triệt uyên tư:
Em
từ rửa mặt chân như
Nghiêng
soi hạt nước mời hư không về
Thau
hương hiện kính bồ đề
Phấn
son chìm lắng hạt mê luân hồi.
Luân
hồi sinh tử trùng trùng vô tận, từ vô thủy đến vô chung. Có mê man, đắm lụy trần
hồng thì mới mau đưa tới vỡ bùng tỉnh thức. Thức tỉnh rồi thì mọi việc ở đời
coi như đã xong, tiêu dao bước vào Tịnh độ, xả buông xuống hết mọi lợi danh,
tham vọng, mê si ám chướng, mở rộng lòng đại từ đại bi, trang trải ra khắp mười
phương, phát đại nguyện thượng thừa thương yêu tất cả muôn loài vạn vật chốn trần
gian:
Thư
em ướp nụ lan vàng
Lời
em gió núi chiên đàn thoảng xa
Áo
em phất cõi Di Đà
Ngón
chân em nở cánh hoa đại từ.
Hoa
đại từ bừng nở, hương từ bi, từ ái ngan ngát, lan tỏa mọi miền khắp cõi nhân
sinh, làm cho thiên hạ, ai ai cũng hít thở được bầu không khí vi diệu, nồng ấm
đậm đà. Phải chăng cõi ta bà đã biến thành cảnh giới Niết bàn, Tịnh độ hào
phóng hân hoan:
Đưa
em tìm động hoa vàng
Then
mây khóa một Niết bàn ven khe
Mai
sau viễn khách nào nghe
Tìm
lên xin hỏi một bè mây xanh
Hoa
vàng ta để chờ anh
Hiện
thân ca hát trên nhành tâm mai
Trần
gian chào cõi mộng này
Sông
Ngân tìm một bến ngoài hóa duyên.
Động
Hoa Vàng thấp thoáng giữa thiên thu vời vợi, lãng đãng bên miền chẳng có đâu mà
vẫn hiện hữu nhiệm mầu, vẫn duy tâm sở hiện giữa thực tại hiện tiền. Mầu nhiệm như
tiếng đàn vô thanh của Thúy Kiều đã làm rung động hàng triệu triệu trái tim con
người trên mặt đất nhân sinh từ bao giờ cho đến bây giờ. Thật không thể nghĩ
bàn sức sáng tạo tuyệt trù của bậc đại thi hào Nguyễn Du, cùng tương ứng với
Nguyễn Du, ngày nay có Phạm Thiên Thư cũng thử hòa âm vào giai điệu da diết tiếng
lòng muôn thuở đồng thanh:
Lòng
như bát ngát mây xanh
Thân
như sương tụ trên cành đông mai
Cuộc
đời chớp lóe mưa bay
Càng
đi càng thấy dặm dài nỗi không
Thân
tâm bệnh nghiệp trần hồng
Lênh
đênh trầm nguyệt bềnh bồng phù vân
Giam
trong tài mệnh giả chân
Trăm
năm hồ dễ một lần bay cao
Đau
lòng chuốc tiếng đàn nao
Năm
cung nước chảy lại chao phận mình
Đời
Kiều trải mấy nhục vinh
Ngã
nhân đã vượt thế tình đã qua
Đoạn
trường sổ gói tên hoa
Xưa
là giọt lệ nay là hạt châu.
Đó
là cuộc đi kỳ cùng của Thúy Kiều theo thể điệu: “Trăm năm trong cõi người
ta... Mua vui cũng được một vài trống canh” song hành với nhịp đàn chan chứa ân
tình linh diệu cứ mãi vang lên văng vẳng tận đáy lòng, sau mười lăm năm đoạn
trường mới trùng phùng tao ngộ mà Phạm Thiên Thư bắt gặp lại nụ cười:
Mười
lăm năm lại đơm tươi
Duyên
may bọt sóng chim trời gặp nhau
Lan
xưa in đáy lòng sầu
Trách
chi con suối nhạt màu thời gian
Trăng
nao man mác tơ đàn
Chừ
nghe hờ hững đôi làn khói bay
Lò
trầm ai chửa ngừng tay
Mà
sao hơi lạnh như ngày mưa thưa
Vui
giờ nuối cái buồn xưa
Chút
gì để nhớ để chờ để không
Tưởng
đàn nối nhịp tơ đồng
Thuyền
trăng sớm tếch bến hồng bay lên
Chơi
vơi trong cõi diệu huyền
Đời
Kiều dệt một trường thiên tuyệt vời.
Tuyệt
vời, tuyệt diệu đến độ vô ngôn, chỉ biết cảm nhận thôi, chứ không thể diễn đạt
bằng lời. Trời đất quê hương vẫn còn mãi rung ngân bất tuyệt tiếng đàn tâm hạnh
thanh thoát tài hoa:
Tơ
chùng tưởng cuốn mưa sa
Hiên
văn khép mở phên hoa khói trầm
Bao
năm vùi giữa cát lầm
Như
cành sen trổ trong đầm hạ xanh
Giờ
Kiều lại nối âm thanh
Thử
đem sương gió tựu thành cung dây
Tiếng
đàn rã liễu rời mây
Ngón
tay dã hạc vờn bay dặt dìu
Hai
hàng lau lách đìu hiu
Đồi
phong lá gọi bóng chiều xác xao
Hạt
đàn tấm tức nao nao
Suối
tuôn mạch đá đau bào lòng non
Lơ
thơ hoa trải đường mòn
Bâng
khuâng ráng đỏ theo con nhạn về
Năm
cung da diết đê mê
Nắng
hoen thềm phấn mây kề song hương
Ngón
cong đàn trổ nụ hường
Ngón
xuôi tơ rụng hoa vương mấy dòng.
Thế
là, kể từ Thúy Kiều mười lăm năm đọa đày, luân lạc, đoạn trường của Nguyễn Du đến
Thúy Kiều hóa thân thành nàng thơ diễm tuyệt huyền mộng, Phạm Thiên Thư đã đưa
ngôn ngữ thi ca Việt Nam phiêu diêu lên đến chỗ tuyệt đỉnh ngút ngàn:
Cho
thơ hòa với mênh mang
Cho
mênh mang đọng hạt đàn vô thanh
Đất
dày nhập với trời xanh
Đoạn
trường xưa hóa trường thành lưng mây
Áo
thơ hồng quả tươi cây
Tiếp
thu lẽ sáng chan đầy mạch linh
Muôn
loài mở cuộc hồi sinh
Dựng
lên khắp cõi bình minh đại hòa
Kiều
giờ là cỏ là hoa
Đường
gân mạch máu xương da cũng nàng
Bài
thơ thoát vận đoạn tràng
Hóa
thành hạt ngọc nghiêm trang trời người.
Nếu
thế giới thi ca Nguyễn Du còn mãi âm vang đồng vọng một tiếng lòng muôn thuở
thiên thu thì thế giới thi ca Phạm Thiên Thư cũng cứ vẫn rạt rào trên cung bậc
ngân nga suối nhạc nguồn thơ vĩnh cửu.
Trái qua: Phạm Thiên Thư, Tâm Nhiên, Trần Thoại Nguyên, trước quán cà phê Hoa Vàng (14. 2. 2015) |
Mỗi
dịp vào cuối năm hay dịp nghỉ hè về lại Sài Gòn, tôi thường hay đến quán cà phê
Hoa Vàng của thi sĩ Phạm Thiên Thư ở đường Hồng Lĩnh (quận 10), ngồi lắng nghe
nguồn thơ suối nhạc đồng vọng mênh mang trong tâm hồn và nhớ có lần cách đây
cũng lâu lắm rồi, tôi có làm một bài thơ tặng thi sĩ, ghi lại một chút tình văn
nghệ giữa dòng đời cuồn cuộn trôi mau:
Một
giọt sương cũng nhiệm mầu
Huống
chi chiếc lá cành lau lách hồng
Từ
hồn thơ mở hư không
Chuyển
kinh thi hóa muôn dòng Tào Khê
Suối
nguồn vi diệu chảy về
Động
hoa vàng nọ ngõ quê quán này
Quê
lòng trong trẻo xưa nay
Vô
lường xanh biếc hiện đầy ắp thương
Yêu
cây cỏ dại ven đường
Nghìn
phương rốt lại một phương tâm hành
Chao
ơi! Đoạn trường vô thanh
Còn
ngân nga mãi biến thành Đạo ca.
Tâm
Nhiên
___________________________________________________
*
Bùi Giáng. Thi ca tư tưởng. An Tiêm xuất bản, Sài Gòn 1972
**
Phạm Thiên Thư. Kinh ngọc. Đại học Vạn Hạnh xuất bản, Sài Gòn 1971
Thơ
Phạm Thiên Thư (chữ nghiêng) trích trong các tác phẩm:
Động
hoa vàng. Tiếng Thơ xuất bản, Sài Gòn 1971.
Đoạn
trường vô thanh. Tái bản lần thứ hai. Thanh Niên xuất bản 2003.
_____________________________________________________________________
Hình ảnh minh họa trong bài được góp nhặt từ mạng internet. Do không biết tác giả ảnh để trực tiếp xin phép đăng tải nên Mai Lĩnh rất mong được lượng thứ và chấp thuận. Xin cám ơn.
_____________________________________________________________________
Hình ảnh minh họa trong bài được góp nhặt từ mạng internet. Do không biết tác giả ảnh để trực tiếp xin phép đăng tải nên Mai Lĩnh rất mong được lượng thứ và chấp thuận. Xin cám ơn.